Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Chiến tranh Đông Dương”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Dòng 338:
Ngày 15/6/1946, người lính cuối cùng của quân đội [[Trung Hoa Dân Quốc]] rời khỏi Việt Nam<ref name="Currey"/>. Các thành viên Việt Nam Quốc dân Đảng và Việt Nam Cách Mệnh Đồng minh hội mất chỗ dựa hậu thuẫn chính là quân đội [[Tưởng Giới Thạch]] và do bất đồng về việc ký [[Hiệp định sơ bộ Pháp-Việt 1946|Hiệp định sơ bộ Pháp-Việt]] mùng 6 tháng 3 đã lần lượt rút khỏi chính phủ Liên hiệp.{{fact|date=17-7-2014}} Lãnh tụ đảng Việt Cách là [[Nguyễn Hải Thần]] và các thành viên Việt Quốc - Việt Cách khác trong chính phủ như [[Nguyễn Tường Tam]], [[Vũ Hồng Khanh]] và cánh thân Tưởng do Vũ Hồng Khanh lãnh đạo lưu vong sang Trung Quốc. Các đảng viên Đại Việt phần lớn vẫn ở lại Việt Nam chờ thời cơ<ref name="vonguyengiap2">Đại tướng Võ Nguyên Giáp - Tổng tập Hồi ký, Những năm tháng không thể nào quên, trang 290</ref>. Nguyễn Tường Tam với tư cách Bộ trưởng Bộ ngoại giao dẫn đầu phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tham gia [[Hội nghị Đà Lạt 1946|Hội nghị trù bị tại Đà Lạt]], nhưng do bất đồng đã không tham gia hầu hết các phiên họp<ref>Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Tổng tập Hồi Ký, Những năm tháng không thể nào quên, trang 274</ref>, sau đó cũng không tham gia [[Hội nghị Fontainebleau 1946|Hội nghị Fontainebleau]], cuối cùng rời bỏ chính phủ<ref name="NTB">[http://lmvn.com/truyen/index.php?func=viewpost&id=c6j6GAnIk1u39gHBrZ4ou5OJb8b4i3nB&ssid=3300 Việt Nam, một thế kỷ qua, Nguyễn Tường Bách], Nxb Thạch Ngữ, California, 1998</ref> (tài liệu nhà nước nêu Nguyễn Tường Tam thiếu bản lĩnh chính trị, lập trường bấp bênh, biển thủ công quỹ rồi đào nhiệm sang nước ngoài<ref>[http://www.mofahcm.gov.vn/vi/mofa/bng_vietnam/nr050225105543/nr050225105648/nr050302090431/ns050302091503/view Bộ trưởng Nguyễn Tường Tam, Trang web Bộ Ngoại giao]</ref>). Việc các thành viên chủ chốt của Việt Quốc, Việt Cách như [[Nguyễn Hải Thần]], [[Nguyễn Tường Tam]], [[Vũ Hồng Khanh]] rời bỏ chính phủ, lưu vong sang Trung Quốc đã đánh dấu chấm hết cho thời kỳ hợp tác giữa Việt Minh và các đảng phái đối lập tại miền Bắc, trong công cuộc "kháng chiến kiến quốc" mà [[Chính phủ Liên hiệp Kháng chiến]] là biểu tượng.
 
TrongSự lúc đó,mặt của quân đội [[Tưởng NguyênGiới GiápThạch]] vộicho tới từnglúc bướcđó tìmđã cáchđảm loạibảo bỏsự dầntồn cáctại của Việt Nam Quốc dân Đảng và Đồng minh hội. Hai đảng pháinày đốikhông lậpcó một chương trình gắn kết với nhau để tranh thủ dân chúng như Việt Quốc,Minh. Những người lãnh đạo Việt CáchNam Quốc dân Đảng và Đồng minh hội thì còn xa mới có (được những phẩm chất có thể so sánh với Hồ Chí Minh, Võ Nguyễn Giáp và những người có trách nhiệm khác của [[Việt Minh]]. Khi quân đội Tưởng Giới Thạch rút khỏi Việt Nam ngày 15/6/1946, hiểu theo cách này hay cách khác, [[Võ Nguyên Giáp]] quyết định Việt Minh phải hoàn toàn một mình điều khiển bộ máy chính quyền. Võ Nguyên Giáp hối hả hành động ngay với mục tiêu rải khắp: Đồng minh hội được Quốc dân Đảng Tưởng Giới Thạch ủng hộ), ĐạiViệt Nam Quốc dân Đảng mượn danh cách mạng của Việt (đảngNam Quốc dân Đảng năm 1930 do [[Nguyễn Thái Học]] sáng lập, nhóm quốc gia thân Nhật) Đại Việt, những ngườiphần tử Trotskyist, lựcnhững lượngngười chínhquốc trịgia chống Pháp, những người đội lốt Công giáo mang tên "chiến sĩ Công giáo".. Võ Nguyễn Giáp đã từng bước tìm cách loại bỏ dần các đảng phái, phần tử phản động này. Ngày 19/6/1946, [[Báo Cứu Quốc]] của Tổng bộ [[Việt Minh]] đăng xã luận kịch liệt chỉ trích "''bọn phản động phá hoại Hiệp định sơ bộ Pháp Việt mùng 6 tháng 3''". Ngay sau đó Võ Nguyên Giáp bắt đầu chiến dịch truy quét các đảng phái đối lập bằng lực lượng công an và quân đội do Việt Minh kiểm soát với sự giúp đỡ của nhà cầm quyền Pháp. Ông cũng sử dụng các binh lính, sỹ quan Nhật Bản trốntình tạinguyện ở lại Việt Nam và một số vũ khí do Pháp cung cấp (ở Hòn Giai quân Pháp cung cấp cho chiếnViệt dịchMinh nàynhững khẩu pháo để diệt một số vị trí do quân Đại Việt chiếm giữ).<ref name="Currey">Chiến thắng bằng mọi giá, trang 196-197, Cecil B. Currey, Nxb Thế Giới, 2013</ref> Theo David G. Marr, đó là một thời kỳ đầy hận thù, phản bội và giết chóc. Cho tới tháng 8 năm 1946, các đảng phái đối lập, ngoại trừ [[Công giáo tại Việt Nam|Giáo hội Công giáo]], đều bị phá vỡ, vô hiệu hóa, hoặc buộc phải lưu vong<ref name="David G. Marr"/>. [[Chính phủ Liên hiệp Kháng chiến Việt Nam Dân chủ Cộng hòa|Chính phủ Liên hiệp Kháng chiến]] được thành lập nhằm tạo khối đại đoàn kết, hòa hợp dân tộc giữa các đảng phái, sau [[Vụ án phố Ôn Như Hầu]] đã mất đi ý nghĩa của nó.
 
=== Căng thẳng dẫn đến bùng nổ ===