Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Sao Hải Vương”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 278:
}}</ref>
 
TrongCác ngôn ngữ hiệnkhác, đạikể ngày nay,cả ở những nước không có liênảnh hệhưởng với phương ngữ vàbởi văn hóa Hy Lạp và La Mã, thường sửđịa dụngphương tênhóa gọitừ củatên ngônchính ngữthức đóNeptune cho tênSao hànhHải tinh;Vương. trongTrong tiếng Trung, tiếng Nhật, tiếng Hàn Quốc và Việttiếng NamViệt, tên hành tinh được dịch thành "Hải Vương Tinh" ([[chữ Nho]], 海王星), vì Neptune là vị thần biển cả.<ref>{{chú thích web|title=Planetary linguistics|publisher=nineplanets.org|url=http://nineplanets.org/days.html|accessdate=8 April 2010}}</ref> Trong tiếng Hy Lạp hiện đại, tên gọi của hành tinh này là ''Poseidon'' (Ποσειδώνας: ''Poseidonas''), vị thần biển cả tương ứng với tên gọi Neptune của thần thoại La Mã.<ref>{{chú thích web|url=http://www.greek-names.info/greek-names-of-the-planets/|title=Greek Names of the Planets|accessdate=2012-07-14|quote=Neptune hay ''Poseidon'' như tên gọi Hy Lạp, là Vị thần Biển cả. Nó là hành tinh thứ tám...}} xem [[:el:Ποσειδώνας (πλανήτης)|bài viết tiếng Hy Lạp về hành tinh này]].</ref>
 
===Tình trạng===
Từ khi hành tinhđược phát hiện ra vào năm 1846 cho đến khi [[Sao Diêm Vương|Pluto]] được [[Hành tinh ngoài Sao Hải Vương|phát hiện]] [[Sao Diêm Vương|Pluto]] vào năm 1930, người ta coi Sao Hải Vương được coi là hành tinh xa nhất. Và khiKhi Pluto trở thành hành tinh thứ 9, Sao Hải Vương trở thành hành tinh gần xa nhất Mặt Trời, thứ tronghai thờingoại giantrừ 20 năm từ 1979 đến 1999 khi [[những định luật của Kepler về chuyển động thiên thể|quỹ đạo elip]] dẹt của Sao Diêm Vương đưa thiên thể này đến gần Mặt Trời hơn so với Sao Hải Vương thì hành tinh này tạm coi là xa Mặt Trời nhất.<ref>{{chú thích báo|title=Jan. 21, 1979: Neptune Moves Outside Pluto's Wacky Orbit|work=Wired|url=http://www.wired.com/science/discoveries/news/2008/01/dayintech_0121
|author=Tony Long|accessdate=13 March 2008|date=21 January 2008}}</ref> Năm 1992 khi, [[Janevành Lưuđai Kuiper]] và [[David Jewitt]]được phát hiện radẫn [[vànhđến đaicuộc Kuiper]]tranh dẫnluận đếngiữa nhiềucác nhà thiên văn lậphọc luận rằng Sao Diêm Vương nên được coi là một hành tinh trênhay quỹ đạomột hoặcthiên thuộcthể vềnằm cấu trúctrong vành đai lớn hơn.<ref>{{chú thích tạp chí|author=Weissman, Paul R.|title=The Kuiper Belt| work=Annual Review of Astronomy and Astrophysics| bibcode=1995ARA&A..33..327W|doi = 10.1146/annurev.aa.33.090195.001551}}</ref><ref>{{chú thích web|year=1999|title=The Status of Pluto:A clarification|work=[[International Astronomical Union]], Press release|url=http://www.iau.org/STATUS_OF_PLUTO.238.0.html|accessdate=25 May 2006|archiveurl = http://web.archive.org/web/20060615200253/http://www.iau.org/STATUS_OF_PLUTO.238.0.html |archivedate = 15 June 2006|deadurl=yes}}</ref> Năm 2006, [[Hiệp hội Thiên văn Quốc tế]] lần đầu tiên đưa ra [[định nghĩa hành tinh 2006|định nghĩa]] chính thức thế nào là một [[hành tinh]], xếp Sao Diêm Vương trởthuộc thànhloại "[[hành tinh lùn]]" và Sao Hải Vương trở thành hành tinh xa nhất trong Hệ Mặt Trời.<ref>{{chú thích báo|url=http://www.iau.org/static/resolutions/Resolution_GA26-5-6.pdf|title=IAU 2006 General Assembly: Resolutions 5 and 6|date=24 August 2006|publisher=IAU|format=PDF}}</ref>
 
==Cấu trúc và thành phần==
[[Tập tin:Neptune, Earth size comparison.jpg|nhỏ|upright|So sánh Trái Đất và Sao Hải Vương.]]
 
VớiSao Hải Vương có khối lượng 1,0243{{e|26}} kg,<ref name="fact" /> Sao Hải Vương là vật thể có khối lượngnằm trung gian giữa [[Trái Đất]] và các [[hành tinh khí khổng lồ]]: khối lượng của nó bằng 17 lần [[khối lượng Trái Đất]] nhưng chỉ bằng 1/19 so với của [[Sao Mộc]].<ref name="mass">Khối lượng Trái Đất bằng 5,9736{{e|24}} kg, hay tỷ số khối lượng:
: <math>\begin{smallmatrix}\frac{M_{Neptune}}{M_{Earth}} \ =\ \frac{1,02 \times 10^{26}}{5,97 \times 10^{24}} \ =\ 17,09\end{smallmatrix}</math>
Khối lượng của Sao Thiên Vương bằng 8,6810{{e|25}}&nbsp;kg, hay tỷ số khối lượng:
Dòng 299:
| title = Planetary Fact Sheet&nbsp;– Metric|publisher=NASA
| accessdate = 13 March 2008
}}</ref> Giá trịLực [[hấp dẫn bề mặt|hấp dẫn trên bề mặt]] của hành tinh chỉ nhỏ hơn của Sao Mộc.<ref name="Unsöld & Baschek 2001" /> Bán kính [[xích đạo]] của Sao Hải Vương bằng 24.764&nbsp;km<ref name="Seidelmann Archinal A'hearn et al. 2007" /> hay gấp bốn lần của Trái Đất. Các nhà thiên văn cũng còn phân loại Sao Hải Vương và Sao Thiên Vương được xếp thành môt phân nhóm nhỏ của hành tinh khí khổng lồ được gọi là "các [[Hành tinh khí khổng lồ#Sao Thiên Vương và Sao Hải Vương|hành tinh băng đá khổng lồ]]", do đườngchúng kínhcó kích thước nhỏ hơn và chứamật nhiềuđộ vậtcác [[chất dễ bay hơi]] cao hơn so với của Sao Mộc và Sao Thổ.<ref>See for example: {{chú thích tạp chí
| first = Alan P.|last = Boss
| title = Formation of gas and ice giant planets
| journal = Earth and Planetary Science Letters
| year = 2002|volume = 202|issue = 3–4
| pages = 513–523|doi = 10.1016/S0012-821X(02)00808-7|bibcode = 2002E&PSL.202..513B}}</ref> Trong những dự án tìm kiếm [[hành tinh ngoài Hệ Mặt Trời]], các nhà khoa học cũng hay sử dụng thuật ngữ "hành tinh kiểu Sao Hải Vương" được sử dụng để chỉ những hành tinh có đường kính và khối lượng tương tự như của Sao Hải Vương,<ref>{{chú thích báo
| first = C.|last = Lovis|date = 18 May 2006
| coauthors = Mayor, M.; Alibert Y.; Benz W.
Dòng 310:
| title = Trio of Neptunes and their Belt
| publisher = [[Tổ chức Nghiên cứu vũ trụ châu Âu tại bán cầu Nam|ESO]]
| accessdate = 25 February 2008}}</ref> giống như các nhà thiên văn cũng thường gọi các hành tinh ngoài Hệ Mặt Trời phân loại thành "hành tinh kiểu Mộc Tinh".
 
===Cấu trúc bên trong===
[[Tập tin:Neptune diagram.svg|325px|nhỏ|trái|Minh họa cấu trúc bên trong của Sao Hải Vương: <br /> 1. Tầng thưọng quyển với những đám mây cao <br /> 2. Tầng khí quyển chứa các khí hiđrô, heli và mêtan <br /> 3. Lớp phủ chứa băng gồm nước, amoniac và mêtan <br /> 4. Lõi hành tinh chứa đá (silicat và nikel-sắt)]]
 
Cấu trúc bên trong của Sao Hải Vương tương tự như của [[Sao Thiên Vương#Cấu trúc bên trong|Sao Thiên Vương]]. Tầng khíKhí quyển của nó chiếm khoảng 5% đến 10% khối lượng hành tinh và chiều lẽ mở rộngdày khoảng 10% đến 20% bán kính hành tinh, xuống sâu tới mức áp suất 10 [[Pascal (đơn vị)|GPa]] gấp 100.000 Độlần tậpáp trungsuất khí quyển trên Trái Đất. Ở tầng khí quyển thấp hơn, mật độ của [[mêtan]], [[amoniac]] và [[nước]] tăng lên ở những vùng độcũng cao thấp của khí quyểnhơn.<ref name=hubbard/>
 
[[lớp phủ (địa chất)|Lớp phủ]] nằm trong phạm vi có nhiệt độ từ 2.000 K đến 5.000 K. Khốicó khối lượng của nó tương đương vớikhoảng 10 tới 15 lần khối lượng Trái Đất và chứa chủ yếu nước, amoniac và mêtan.<ref name=Hamilton/> NhưHỗn thườnghợp gặpnày trongthường khoa học hành tinh, các nhà thiên văn thườngđược gọi hỗn hợp này là "băng" ngay cảmặc khi chúng là chất lỏng nóng và đậm đặc cao. ChấtHỗn hợp lỏng này, với tính dẫn điện mạnh,tốt và đôi khi được gọi là đại dương nước-amoniac.<ref name=Atreya2006>{{chú thích tạp chí
|last=Atreya|first=S.|coauthors=Egeler, P.; Baines, K.
|title=Water-ammonia ionic ocean on Uranus and Neptune?
|journal=Geophysical Research Abstracts
|volume=8|pages=05179|year=2006|format=pdf
|url=http://www.cosis.net/abstracts/EGU06/05179/EGU06-J-05179-1.pdf}}</ref> Lớp phủ cũng có thể chứa một tầng nước ion nơi các phân tử nước bị vỡphân ly thành dạngcác [[ion]] hiđrô và ôxy. và ở những tầng sâu hơn, có thể hình thành trạng thái "nước siêu ion" khi(superionic cácwater). Các ion ôxy kết tụ lại thành mạngbị tinh thể hóa trong khi các ion hiđrô di chuyển tự do trong dànmạng tinh thể ion ôxy.<ref>{{chú thích web|url=http://www.newscientist.com/article/mg20727764.500-weird-water-lurking-inside-giant-planets.html|title= Weird water lurking inside giant planets|publisher= New Scientist|date=1 September 2010|accessdate=15 April 2012}}</ref> Tại độ sâu 7.000&nbsp;km có thể hình thành các điều kiện làm cho mêtan biến thành [[tinh thể]] kim cướng và rơi như mưa đá xuống vùng lõi hành tinh.<ref>{{chú thích tạp chí
|url=http://www.cosis.net/abstracts/EGU06/05179/EGU06-J-05179-1.pdf}}</ref> Tại độ sâu 7.000&nbsp;km, những điều kiện về áp suất và nhiệt độ có thể khiến [[phân tử]] mêtan phân hóa thành [[tinh thể]] [[kim cương]] và rơi vào vùng lõi hành tinh.<ref>
{{chú thích tạp chí
|last=Kerr |first=Richard A.
|title=Neptune May Crush Methane Into Diamonds
Hàng 330 ⟶ 329:
|doi=10.1126/science.286.5437.25a
|pmid=10532884
}}</ref> Phòng thí nghiệm quốc gia Lawrence Livermore đã tiến hành các thí nghiệm với áp suất cực cao cho thấy nền của lớp phủ có thể bao gồm một đại dương kim cương lỏng (liquid diamond) với các hạt 'diamond-bergs' trôi nổi.
}}</ref> Lớp phủ cũng có thể chứa một tầng nước ion nơi các phân tử nước bị vỡ thành dạng [[ion]] hiđrô và ôxy và ở những tầng sâu hơn hình thành trạng thái "nước siêu ion" khi các ion ôxy kết tụ lại thành mạng tinh thể trong khi các ion hiđrô di chuyển tự do trong dàn tinh thể ion ôxy.<ref>{{chú thích web|url=http://www.newscientist.com/article/mg20727764.500-weird-water-lurking-inside-giant-planets.html|title= Weird water lurking inside giant planets|publisher= New Scientist|date=1 September 2010|accessdate=15 April 2012}}</ref>
 
Lõi của Sao Hải Vương có thành phần bao gồm [[sắt]], [[nikel]] và [[silicat]], và có khối lượng theo các mô hình về cấu trúc lõi hành tinh cho kết quả khối lượng của lõihóa bằng 1,2 lần khối lượng Trái Đất.<ref name=pass43>{{chú thích tạp chí
|last=Podolak|first=M.|coauthors=Weizman, A.; Marley, M.
|title=Comparative models of Uranus and Neptune
|journal=Planetary and Space Science
|year=1995|volume=43|issue=12|pages=1517–1522
|doi=10.1016/0032-0633(95)00061-5|bibcode=1995P&SS...43.1517P}}</ref> Áp suất tại trung tâm lõi cao tới 7 [[bar (đơn vị)|Mbar]] (700 GPa), gấp hai lần áp suất tại trung tâm TráicủaTrái Đất, và nhiệt độ tại vùng lõi Sao Hải Vương đạt 5.400 K.<ref name=hubbard/><ref name="nettelmann">{{chú thích web
|last=Nettelmann|first=N.
|coauthors=French, M.; Holst, B.; Redmer, R.|url=https://www.gsi.de/informationen/wti/library/plasma2006/PAPERS/TT-11.pdf
Hàng 353 ⟶ 352:
|volume=275|issue=5304|pages=1279–1280
|doi=10.1126/science.275.5304.1279
|pmid=9064785}}</ref> Cũng có một lượng nhỏ phân tử mêtan. VạchDấu vết của khí mêtan cũng đuợc phát hiện khi các nhà khoa học quan sát thấy vạch quang phổ hấp thụ điển hình của mêtan ở bước sóng trên 600&nbsp;nm, trong miền bước sóng đỏ và hồng ngoại. Giống như Sao Thiên Vương, mêtanMêtan trong khí quyển hấp thụ ánh sáng đỏ làm cho Sao Hải Vương hiện lên có màu sắc xanh lam,giống như Sao Thiên Vương.<ref>{{chú thích web
|last=Crisp|first=D.|coauthors=Hammel, H. B.
|date=14 June 1995
Hàng 360 ⟶ 359:
|publisher = Hubble News Center
|accessdate = 22 April 2007
mặc}}</ref> Tuy nhiên, màu [[xanh da trời]] sáng của Sao Hải Vương khác hẳn so với màu [[xanh lơ]] lạnh của Sao Thiên Vương. Do cácmật nhà khoa học biết lượngđộ mêtan trong khí quyển Saocủa Hảihai Vươnghành tương tương tự nhưnhau củanên Saongười Thiênta Vương,chưa tuybiết nhiênthành họphần chưanào biếttrong khí quyển là nguyên nhân nào làm cho hai hành tinh có màu sắc khác nhau.<ref name=bluecolour/>
}}</ref>
mặc dù màu [[xanh da trời]] sáng của Sao Hải Vương khác hẳn so với màu [[xanh lơ]] lạnh của Sao Thiên Vương. Do các nhà khoa học biết lượng mêtan trong khí quyển Sao Hải Vương tương tự như của Sao Thiên Vương, tuy nhiên họ chưa biết nguyên nhân nào làm cho hai hành tinh có màu sắc khác nhau.<ref name=bluecolour/>
 
Khí quyển Sao Hải Vương chia ra thành hai vùng chính; [[tầng đối lưu]] phía dưới với nhiệt độ trong tầng này giảm theo cao độ, và [[tầng bình lưu]] phía trên với nhiệt độ tăng theo cao độ. Biên giới giữa hai vùng này, được gọi là [[tầng đối lưu#Khoảng lặng đối lưu|khoảng lặng đối lưu]], nơimức áp suất 0,1 bar (10 kPa).<ref name="Lunine 1993" /> Tầng bình lưu chuyển dần thành [[tầng nhiệt]] ở mức áp suất nhỏ hơntừ 10<sup>−5</sup> đến 10<sup>−4</sup> microbar (1 đến 10 Pa).<ref name="Lunine 1993" /> Và tầngTầng nhiệt chuyển dần sang [[tầng ngoài (khí quyển)|tầng ngoài]] nơi tiếp giáp hẳn với không gian [[vũ trụ]].
 
[[Tập tin:Neptune clouds.jpg|nhỏ|Những dải mây ở trên cao phủ bóng xuống tầng mây thấp hơn của Sao Hải Vương. ''Ảnh của Voyager 2'']]
 
Các mô hình khí quyển gợicho rarằng tầng đối lưu của Sao Hải Vương có những dải mây với nhiều thành phần thay đổi phụ thuộc vào cao độ của chúng. Những đám mây cao nhất xuấthình hiệnthành tại mức áp suất dưới 1 bar, nơi nhiệt độ phù hợp cho khí mêtan ngưng tụ lại. ĐốiNhững vớivùng có mức áp suất giữatừ 1 đến 5 bar (100 - 500 kPa), ở vùng này có thể hình thành lên các đám mây amoniac và [[hiđrô sunfua|hiđrô sunfit]]. Ở dưới sâu hơn vớiVới áp suất trên 5 bar, các đám mây có thànhthể phầnchứa amoniac, [[amonium sulfide]], hiđrô sunfit và nước. Các đám mây băng nước có thể hình thành ở độ sâu với mức áp suất 50 bar (5 MPa), nơi nhiệt độ đạt 0&nbsp;°C. Bên dưới mức này, cũng có thể có đám mây amoniac và and hiđrô sunfit.<ref name=elkins-tanton/>
 
Tàu ''Voyager 2'' đã chụp được ảnh các đám mây ở trên cao khí quyển Sao Hải Vương phủ bóng lên tầng mây mờ bên dưới. Cũng có những dải mây cao độ cao lớn bao phânxung bốquanh theohành tại một vĩ độ khôngnhất đổi trên hành tinhđịnh. Chúng có bề rộng khoảng 50–150&nbsp;km và nằmcách trêncác tầng mây thấp mờ khoảng cách 50–110&nbsp;km.<ref name=apj125/>
 
Dữ liệu qua [[quangQuang phổ]] của Sao Hải Vương cho thấy phía thấp của tầng bình lưu Sao Hải Vương là đám sương mù chứa những phân tử ngưng tụ của quá trình [[quang ly]] mêtan, như các sản phẩm êtan và [[axetylen]].<ref name="Lunine 1993" /><ref name=hubbard/> Trong tầng bình lưu cũng có dấu vết của phân tử [[cacbon mônôxít]] và [[Hidro xyanua|hidro xyanit]].<ref name="Lunine 1993" /><ref name="Encrenaz 2003" /> Nhiệt độ của tầng bình lưu trên Sao Hải Vương cao hơn nhiệt độ tầng bình lưu trên Sao Thiên Vương do có nhiều phân tử [[hiđrôcacbon]] tập trung hơn.<ref name="Lunine 1993" />
 
Vì một lý do chưa rõ ràng, các nhà thiên văn nhận thấy tầngTầng nhiệt của hành tinh này có nhiệt độ cao bất thường lên tới 750 K do một nguyên nhân chưa rõ.<ref name=Broadfoot19989>{{chú thích tạp chí|last=Broadfoot|first=A.L.|coauthors=Atreya, S.K.; Bertaux, J.L. et al.|title=Ultraviolet Spectrometer Observations of Neptune and Triton|journal=Science|volume=246|pages=1459–1456|year=1999| url=http://www-personal.umich.edu/~atreya/Articles/1989_Voyager_UV_Spectrometer.pdf|format=pdf|doi=10.1126/science.246.4936.1459|pmid=17756000|issue=4936|bibcode=1989Sci...246.1459B}}</ref><ref name="Herbert & Sandel 1999" /> Sao Hải Vương nằm quá xa Mặt Trời để bức xạ [[tử ngoại]] từ nó có thể làm nóng tầng này. Một giả thuyết cho cơ chế làm nóng tầng nhiệt đó là sự tương tác của các ion trong khí quyển với [[từ quyển]]trường của hành tinh. Giả thuyết khác cho rằng [[sóng trọng lực]] (gravity wave, chú ý khác với [[sóng hấp dẫn]]-gravitational wave) xuất phát từ bên trong hành tinh tiêu tán nhiệt ra khí quyển của nó. Tầng nhiệt chứa lượng nhỏ phân tử [[cacbon điôxít]] và nước, mà những phân tử này có nguồn gốc từ bên ngoài như bụi vũ trụ hoặc mảnh vỡ của các [[thiên thạch]].<ref name=elkins-tanton/><ref name="Encrenaz 2003" />
 
===Từ quyển===
[[Từ quyển]] của Sao Hải Vương giống với Sao Thiên Vương. về [[từTừ quyểntrường]], vớicủa một [[từnghiêng trường]]một nghiênggóc lớn 47° so với trục tự quay của nó khoảng 47° trục từ trường lệch ra khỏi tâm hành tinh 13.500&nbsp;km (khoảng cách tới 0,55 lần bán kính hành tinh, hay bằng 13.500&nbsp;km tính từ tâm). Trước khi ''Voyager 2''' bay qua Sao Hải Vương, các nhà khoa họcngười giảta thuyếtcho rằng trục từ quyển của Sao Thiên Vương bị nghiêng lớn là do trục tự quay của hành tinh nghiêng với góc lớn. Nhưng khi so sánh từ trường của hai hành tinh với nhau, các nhà khoa học nhận ra rằng hướng của trục từ trường là dođược đặc trưng củabởi nhữngcác dòng đối lưu của chất lỏng bên trong các hành tinh băng đá. Từ trường có thể được sinh ra bởi chuyển động của chất lỏngsự [[đối lưu]] của các chất lỏng [[dẫn điện]] bên trong một lớp vỏ mỏng hình cầu (chất lỏng này có lẽ chứa amoniac, mêtan và nước)<ref name=elkins-tanton>Elkins-Tanton (2006):79–83.</ref> dẫntương đếntự hình thành sựnhư hoạt động của các [[dynamo]] làm phát sinh ra từ trườngđiện.<ref>{{chú thích tạp chí
|last=Stanley|first=Sabine|coauthors=Bloxham, Jeremy
|title=Convective-region geometry as the cause of Uranus' and Neptune's unusual magnetic fields
Hàng 406 ⟶ 404:
{{chính|Vành đai Sao Hải Vương}}
[[Tập tin:neptunerings.jpg|upright|nhỏ|Vành đai Sao Hải Vương, chụp bởi ''Voyager 2''.]]
Sao Hải Vương cũng có một hệ thống [[vành đai hành tinh]], mặc dù chúng mờ hơn nhiều so với [[vành đai Sao Thổ]]. Các vành đai chứa những hạt băng phủ với silicat hoặc vật liệu gốc cacbon, và là nguyên nhân chủ yếu khiến các vành đai có màu sắc đỏ.<ref>Cruikshank (1996):703–804</ref> Ba vành đai chính là những vành hẹp gồm Vành Adams, cách tâm Sao Hải Vương 63.000&nbsp;km, Vành Le Verrier cách 53.000&nbsp;km, và một vành rộng hơn nhưng mờ hơn là Vành Galle, cách tâm hành tinh 42.000&nbsp;km. Phía bên ngoài Vành Le Verrier có một vành mờ là Vành Lassell; và một vành bên ngoài nó ở khoảng cách 57.000&nbsp;km là Vành Arago.<ref>{{chú thích web
|last=Blue|first=Jennifer|date=8 December 2004
|url=http://planetarynames.wr.usgs.gov/Page/Rings
Hàng 413 ⟶ 411:
|accessdate=28 February 2008}}</ref>
 
Những vànhVành đai nàyđầu tiên được phát hiện đầu tiên vào năm 1968 bởi một đội các nhànhóm thiênnghiên văncứu do Edward Guinan đứng đầu,.<ref name=ring1>{{chú thích báo
|last=Wilford|first=John N.|date=10 June 1982
|title=Data Shows 2 Rings Circling Neptune
Hàng 425 ⟶ 423:
|year=1982|volume=14|pages=658
|bibcode=1982BAAS...14..658G
}}</ref> nhưngNhưng lúc đó họ chỉ quan sát thấy cungmột vành mờ, và không nhận ra một hệ thống vành đai đầy đủ.<ref>{{chú thích tạp chí
|last=Goldreich|first=P.
|coauthors=Tremaine, S.; Borderies, N. E. F.
Hàng 433 ⟶ 431:
|bibcode=1986AJ.....92..490G
|doi=10.1086/114178
}}</ref> ChứngNăm 1984, xuất hiện những chứng cứ rõ ràng hơn cho thấy phải có những khoảng trống giữa các vành đai. xuấtCác hiệnnhà vàokhoa nămhọc 1984vẫn trongquan quását trìnhthấy cácánh nhàsáng thiêncủa vănmột theongôi dõisao sự [[chexa khuấttrong (thiênkhi vănđáng học)|chelẽ khuất]] hànhphải tinhbị đốiche vớikhuất mộtbởi ngôicác saovành ở xađai.<ref name="Nicholson90">{{chú thích tạp chí
|author=Nicholson, P. D. et al.
|title=Five Stellar Occultations by Neptune: Further Observations of Ring Arcs
Hàng 439 ⟶ 437:
|issue=1|pages=1
|bibcode= 1990Icar...87....1N
|doi=10.1016/0019-1035(90)90020-A}}</ref> CuốiNăm cùng1989, ảnhvấn chụpđề từđược sảng tỏ khi tàu ''Voyager 2'' năm 1989 chỉchụp rađược tồn tại một hệảnh thốngcác vành đai mờ quaybao quanh Sao Hải Vương. Những vành đai này có cấu trúc kết tụ các hạt vật chất lại thành một khối,<ref name="Planetary Society">{{chú thích web
|url=http://www.planetary.org/explore/topics/our_solar_system/neptune/missions.html
|title=Missions to Neptune|year=2007
|publisher=The Planetary Society|accessdate=11 October 2007|archiveurl=http://web.archive.org/web/20060208140155/http://www.planetary.org/explore/topics/our_solar_system/neptune/missions.html|archivedate=8 February 2006}}</ref> mà người ta vẫn chưa hiểu là do nguyên nhân gì nhưng có thể là do [[tương tác hấp dẫn]] với những vệ tinh nhỏ quay gần các vành đai này.<ref>{{chú thích báo
|last=Wilford|first=John Noble
|date=15 December 1989
Hàng 453 ⟶ 451:
|first=Arthur N.|last=Cox|year=2001
|title=Allen's Astrophysical Quantities
|publisher=Springer|isbn = 0-387-98746-0}}</ref> Sự tồn tại của những cung này rất khó giải thích bởi vì theo [[những định luật của Kepler về chuyển động thiên thể|những định luật chuyển động]] của [[cơ học thiên thể]] tiên đoán chúng sẽ táchtản ra để trở thành mộtmôt vành đai đầyvới đủmật theođộ đồng nhất trong một khoảng thời gian ngắn. Hiện nay cácCác nhà thiên văn học tin rằng những cung này bịduy điềutrì khiểnđược bởihình dạng hiện nay là do ảnh hưởng [[thuyết tương đối rộng|hấp dẫn]] của vệ tinh [[Galatea (vệ tinh)|Galatea]] nằm ngay phía trong những cung vành đai này.<ref>{{chú thích web
|last=Munsell|first=Kirk|date=13 November 2007
|coauthors=Smith, Harman; Harvey, Samantha
Hàng 468 ⟶ 466:
|pmid=9804544|bibcode=1998Sci...282.1102S}}</ref>
 
Những quan sát từ mặt đất năm 2005 chỉcho ra rằngthấy hệ thống vành đai Sao Hải Vương mấtbất ổn định hơn so với người tasuy nghĩ trước đó. Ảnh chụp từ [[Đài quan sát W. M. Keck]] trong các năm 2002 và 2003 cho thấy sự tan rã đáng kể trong các vành đai khi các nhà thiên văn học so sánh ảnh chụp của chúng từ tàu ''Voyager 2'' năm 1989. Đặc biệt, dường như cung ''Liberté'' đã biến mất trong thời gian ngắn khoảng 1 thế kỷ.<ref>{{chú thích web
|url=http://www.newscientist.com/article/mg18524925.900
|title=Neptune's rings are fading away
Hàng 476 ⟶ 474:
==Khí hậu==
[[Tập tin:Seasons on Neptun.jpg|nhỏ|phải|Sự biến đổi trong thời gian "ngắn" của mùa trên Sao Hải Vương. ''Ảnh của Hubble'']]
Một trong những đặc tính vật lýsự khác nhau giữa Sao Hải Vương và Sao Thiên Vương đó là mức độ hoạtcủa độngcác khíhiện tượng họckhí hậu trên hai hành tinh. Khi tàu ''Voyager 2'' bay qua Sao Thiên Vương năm 1986, qua bước sóng khả kiến hành tinh này hiện lên hầu như đồng màu và tĩnh lặng. Ngược lại Sao Hải Vương lại có những hoạt động mạnh trong tầng khí quyển khi ''Voyager 2'' bay qua từ năm 1989.<ref name=spot />
[[Tập tin:Neptune storms.jpg|nhỏ|upright|Vết Tối Lớn (trên), "Scooter" (đám mây trắng ở phía nam Vết Tối Lớn),<ref name=scooter>{{chú thích web
|first=Sue|last=Lavoie|date=8 January 1998
Hàng 483 ⟶ 481:
|publisher=NASA|accessdate=26 March 2006}}</ref> và Vết Tối Nhỏ (dưới).]]
 
Thời tiết trên Sao Hải Vương được đặc trưng bởi hệ thống những cơn bão hoạt độngcực mạnh, với tốc độ gió có khi vượtlên trêntới gần 600&nbsp;m/s—gầns— gần đạt tới [[tốc độ siêu thanh]] đối với dòng khí.<ref name="Suomi1991" /> Điển hình hơn, bằngKhi theo dõi chuyển động của những đám mây vĩnh cửu, tốc độ gió biếnthay đổi từ 20&nbsp;m/s theo hướng đông lên tớisang 325&nbsp;m/s theo hướng tây.<ref name="Hammel1989">{{chú thích tạp chí
|last=Hammel|first=H. B.
|coauthors=Beebe, R. F.; De Jong, E. M.; Hansen, C. J.; Howell, C. D.; Ingersoll, A. P.; Johnson, T. V.; Limaye, S. S.; Magalhaes, J. A.; Pollack, J. B.; Sromovsky, L. A.; Suomi, V. E.; Swift, C. E.
Hàng 492 ⟶ 490:
|doi=10.1126/science.245.4924.1367
|pmid=17798743
|issue=4924}}</ref> Ở những đám mây trên cao, tốc độ gió biến đổi từ 400&nbsp;m/s dọc xích đạo và còn 250&nbsp;m/s tại hai cực.<ref name=elkins-tanton/> Hầu hết gió trên Sao Hải Vương thổi theo hướng ngược với chiều quay của hành tinh.<ref name=burgess2>Burgess (1991):64–70.</ref> Và miền gió thổi theo hướng cùng chiều với chiều tự quay hành tinh ở những vĩ độ cao, ngược lại gió thổi theo hướng nghịch chiều quay tại vĩ độ thấp và xích đạo. Sự khác nhau trong hướng gió thổi được cho là do hiệu ứng hiệu ứng bề mặt và không phải do cơ chế hoạt động khí quyển ở phía dưới sâu.<ref name="Lunine 1993" /> Tại vĩ độ 70° Nam, tồn tại một luồng gió thổi với tốc độ 300&nbsp;m/s.<ref name="Lunine 1993" /> Sự có mặt của mêtan, êtan và axetylen tại xích đạo cao hơn 10–100 lần tại hai cực.<ref name="Lunine 1993" />
 
Năm 2007 các nhà khoa học phát hiện ra, phía trên tầng đối lưu của cực Nam Sao Hải Vương được phát hiện có nhiệt độ cao hơn 10&nbsp;°C so với phần còn lại của Sao Hải Vương, với nhiệt độ trung bình xấp xỉ {{convert|-200|°C|K|-1|abbr=on}}.<ref>{{chú thích tạp chí|title=Evidence for methane escape and strong seasonal and dynamical perturbations of Neptune's atmospheric temperatures|author=Orton, G. S., Encrenaz T., Leyrat C., Puetter, R. and Friedson, A. J.|work=|doi=10.1051/0004-6361:20078277|year=2007|journal=Astronomy and Astrophysics|volume=473|pages=L5–L8|bibcode=2007A&A...473L...5O}}</ref> Sự chênh lệch nhiệt độ là đủ để khí mêtan, mà chúng nằm ở vùng nhiệt độ lạnh trong thượng quyển Sao Hải Vương, có khả năng rò ra ngoài không gian vũ trụ thông qua cực nam. "Điểm nóng tương đối" này là do ảnh hưởng [[độ nghiêng trục quay]] của Sao Hải Vương, làm cho vùng cực nam hành tinh phơi dưới ánh sáng Mặt Trời trong một phần tư "năm Sao Hải Vương", hay gần 40 năm Trái Đất. Khi Sao Hải Vương di chuyển chậm dần về phía đối diện, vùng cực nam của nó sẽ bị tối đi và vùng cực bắc được chiếu sáng, và dần dần làm cho mêtan thoát ra khỏi hành tinh thông qua vùng cực bắc.<ref>{{chú thích báo
|first=Glenn|last=Orton|coauthors=Encrenaz, Thérèse
|url=http://www.eso.org/public/news/eso0741/
Hàng 501 ⟶ 499:
|accessdate=20 September 2007}}</ref>
 
Bởi vìDo sự thay đổi theo mùa, các nhà khoa học đã quan sát thấynên những dải mây ở bán cầu nam hành tinh này tăng dần theo kích cỡ và [[suất phản chiếu]]. XuHiện hướngtượng này lần đầu tiên được phátghi hiệnnhận lần đầu tiên vào năm 1980 và ngườiđược tadự nghĩ rằng nóbáo sẽ kéo dài đến tận năm 2020. Chu kỳ quỹ đạo lớn của Sao Hải Vương cũng làm cho các mùa trên hành tinh này diễn ra trong bốn mươi năm.<ref name=villard>{{chú thích báo
|last=Villard|first=Ray|coauthors=Devitt, Terry
|date=15 May 2003
Hàng 511 ⟶ 509:
===Bão trên Sao Hải Vương===
[[Tập tin:Neptune darkspot.jpg|nhỏ|trái|Vết Tối Lớn, phía nam bán cầu ở phía trên bức ảnh (ảnh đã bị quay ngược), chụp bởi ''Voyager 2'']]
Năm 1989, [[Vết Tối Lớn]], một cơn bão xoáy nghịch với diện tích 13000×6600&nbsp;km,<ref name=spot>{{chú thích web
|last=Lavoie|first=Sue|date=16 February 2000
|url=http://photojournal.jpl.nasa.gov/catalog/PIA02245
|title=PIA02245: Neptune's blue-green atmosphere
|publisher=NASA JPL|accessdate=28 February 2008}}</ref> dođược tàu ''Voyager 2'' phát hiện. Cơn bão này có dạng giống với [[Vết Đỏ Lớn]] của Sao Mộc. 5 năm sau, ngày 2 tháng 11 năm 1994, kính thiên văn không gian Hubble không nhìn thấy Vết Tối Lớn trên khí quyển hành tinh. Thay vào đó, một cơn bão tương tự như Vết Tối Lớn xuất hiện ở bán cầu bắc hành tinh.<ref>{{chú thích tạp chí
|last=Hammel|first=H. B.
|coauthors=Lockwood, G. W.; Mills, J. R.; Barnet, C. D.
Hàng 526 ⟶ 524:
}}</ref>
 
"Scooter", tên gọi chocủa một cơn bão khác, là một nhóm các đám mây trắng ở phía nam của Vết Tối Lớn. Các nhàđược thiên văn gọiđặt tên như vậy là do khi lần đầu tiên được phát hiện ra vài tháng trước khi ''Voyager 2'' bay quan hành tinh năm 1989, người ta nhận thấy nó di chuyển nhanh hơn Vết Tối Lớn.<ref name=burgess2/> Những bức ảnh chụp sau đó cho thấy còn có những đám mây di chuyển nhanh hơn nữa. [[Vết Tối Nhỏ]] là một cơn bão xoáy thuận ở bán cầu nam, cơn bão mạnh thứ hai được quan sát trong lần bay qua năm 1989. Ban đầu cơn bão này hoàn toàn tối màu, nhưng khi ''Voyager 2'' tiếp cận hành tinh, nó đã phát hiện ra cơn bão hình thành một trung tâm sáng và có thể nhìn thấy trong đa số những bức ảnh có độ phân giải cao.<ref>{{chú thích web
|last=Lavoie|first=Sue|date=29 January 1996
|url=http://photojournal.jpl.nasa.gov/catalog/PIA00064
Hàng 547 ⟶ 545:
|issue=2|pages=275–285|doi=10.1006/icar.1998.5918
|url=http://www.lpl.arizona.edu/~showman/publications/stratman-etal-2001.pdf
|format=PDF|accessdate=26 February 2008|bibcode=1998Icar..132..239L}}</ref> Sự luôn xuất hiện những đám mây đồng hành chỉ ra rằng những vết tối trước đó có thể tiếp tục tồn tại như là một xoáy thuận khí quyển ngay cả khi chúng không còn hiện lên là một đặc điểm tối nữa. Những vết tối có thể tiêu tan khi chúng tiến quá gần đến vùng xích đạo hoặc thông qua một cơ chế bí ẩn chưa cácđược nhàkhám khoa học chưa biết đượcphá.<ref>{{chú thích tạp chí
|last=Sromovsky|first=L. A.
|coauthors=Fry, P. M.; Dowling, T. E.; Baines, K. H.
Hàng 558 ⟶ 556:
[[Tập tin:Different Faces Neptune.jpg|nhỏ|Bốn bức ảnh chụp cách nhau vài giờ từ kính thiên văn Hubble của NASA/ESA qua camera WFC 3.<ref>{{chú thích web|url=http://www.spacetelescope.org/images/ann1115a/|title=Happy birthday Neptune|publisher=ESA/Hubble|accessdate=13 July 2011}}</ref>]]
 
Sao Hải Vương có sự hoạt động trong khí quyển mạnh hơn so với trên Sao Thiên Vương, điều này. Nguyên thểnhân giảiđược thíchcho bằng [[nội nhiệt]] trong hành tinh cao hơn so với Sao Thiên Vương. Mặc dù Sao Hải Vương nằm xa Mặt Trời hơn so với Sao Thiên Vương, nó chỉ nhậnhấp thụ được 40% lượng ánh sáng Mặt Trời,<ref name="Lunine 1993" /> nhưng nhiệt độ bề mặt trên hai hành tinh lại xấp xỉ bằng nhau.<ref name=williams/> Vùng bên trên tầng đối lưu của Sao Hải Vương có nhiệt độ thấp {{convert|-221,4|°C|K|abbr=on}}. Ở độ sâu nơi [[áp suất]] khí quyển bằng {{convert|1|bar|kPa|lk=on}}, nhiệt độ tại đây bằng {{convert|-201,15|°C|K|abbr=on}}.<ref>{{chú thích tạp chí
|last=Lindal|first=Gunnar F.
|title=The atmosphere of Neptune&nbsp;– an analysis of radio occultation data acquired with Voyager 2
Hàng 564 ⟶ 562:
|year=1992|volume=103|pages=967–982
|bibcode=1992AJ....103..967L
|doi=10.1086/116119}}</ref> Sâu dưới bên trong tầng khí, nhiệt độ tăng dần theo độ sâu. GiốngCũng giống như Sao Thiên Vương, cácnguồn nhàgốc khoasinh họcra vẫnnhiệt này chưa được vềlàm nguồnrõ. nhiệtTuy này, nhưngnhiên giữa hai hành tinh có sự khác biệt lớn: Sao Thiên Vương chỉ phát ra 1,1 lần năng lượng nó nhận được từ bức xạ của Mặt Trời;<ref>{{chú thích web
|title=Class 12&nbsp;– Giant Planets&nbsp;– Heat and Formation
|work=3750&nbsp;– Planets, Moons & Rings|year=2004
Hàng 598 ⟶ 596:
==Quỹ đạo và sự tự quay==
[[Tập tin:Neptune Orbit.gif|nhỏ|Sao Hải Vương (vòng đỏ) hoàn thành một chu kỳ quỹ đạo quanh Mặt Trời hết 164,79 vòng quỹ đạo Trái Đất. Sao Thiên Vương có màu xanh.]]
Khoảng cách trung bình giữa Sao Hải Vương và Mặt Trời là 4,5 tỷ km (khoảng 30,1 AU), và chu kỳ quỹ đạo bằng 164,79 năm Trái Đất, với sự biếnthay đổi xung quanh giátrong trịkhoảng ±0,1 năm.
 
Ngày 11 tháng 7 năm 2011, Sao Hải Vương đã hoàn thành hết một vòng quỹ đạo quanh [[tọa độ khối tâm (thiên văn học)|khối tâm]] với Mặt Trời kể từ khi phát hiện ra hành tinh năm 1846,.<ref name="obsjul711">{{chú thích báo
|first=Robin| last=McKie
|url = http://www.guardian.co.uk/science/2011/jul/10/neptune-orbit-anniversary-astronomy
Hàng 609 ⟶ 607:
|url=http://azureworld.blogspot.com/2011/07/neptune-completes-first-orbit-since.html
|title=Neptune Completes First Orbit Since Discovery: 11th July 2011 (at 21:48 U.T.±15min)
|accessdate=10 July 2011}}</ref> mặc dù nó không xuất hiện tại đúng vị trí trên bầu trời mà Galle đã từng nhìn thấylúctrong ngàyđược phát hiện ra bởi vì Trái Đất đã ở vị trí khác trong quỹ đạo 365,25 ngày. Bởi vìDo Mặt Trời cũng chuyển động so với khối tâm của toàn Hệ Mặt Trời, nên ngày 11 tháng 7 Sao Hải Vương cũng không ở vị trí chính xác tương đối so với Mặt Trời ở thời điểm khámphát phá;hiện ra nó. nếuNếu chúng ta sử dụng hệ tọa độ có Mặt Trời tại tâm, thì ngày hoàn thành một chu kỳ quỹ đạo của Sao Hải Vương là 12 tháng 7 năm 2011.<ref name="fact2">{{chú thích web
|first=K.| last=Munsell|coauthors=Smith, H.; Harvey, S.
|url = http://solarsystem.nasa.gov/planets/profile.cfm?Object=Neptune&Display=Facts
Hàng 626 ⟶ 624:
|accessdate=25 February 2008}}—Numbers generated using the Solar System Dynamics Group, Horizons On-Line Ephemeris System.</ref>
 
Mặt phẳng quỹ đạo [[elip]] của Sao Hải Vương nghiêng 1,77° so với mặt phẳng quỹ đạo của Trái Đất. Bởi vìDo [[độ lệch tâm quỹ đạo]] của nó bằng 0,011; nên khoảng cách giữa hành tinh vàtới Mặt Trời thay đổi trong phạm vi 101 triệu km giữa [[củng điểm quỹ đạo|cận điểm]] và [[củng điểm quỹ đạo|viễn điểm]] quỹ đạo.<ref name=horizons/>
 
Trục tự quay của Sao Hải Vương nghiêng 28,32°,<ref>{{chú thích web
Hàng 632 ⟶ 630:
|url=http://nssdc.gsfc.nasa.gov/planetary/planetfact.html
|title=Planetary Fact Sheets|publisher=NASA
|accessdate=28 February 2008}}</ref> xấp xỉ gần bằng so với của Trái Đất (23°) và [[Sao Hỏa]] (25°). Kết quảthế nó là hành tinh có sự thay đổi thời tiết giữa các mùa. Mặt khác doDo chu kỳ quỹ đạo lớn, cho nên mỗi mùa của hành tinh diễn ra trong vòng 40 năm Trái Đất.<ref name=villard/> Chu kỳ sao (ngày) của hành tinh gần bằng 16,11 giờ.<ref name="fact2" /> Do trục quay hành tinh nghiêng tương tự như của Trái Đất, sự biến đổi trong thời gian của một "ngày" Sao Hải Vương không thay đổi đáng kể trong một "năm" của hành tinh.
 
Bởi vì Sao Hải Vương không phải là một quả cầu rắn, bầu khí quyển của nó thể hiện sự quay vi sai. Vùng xích đạo của khí quyển có chu kỳ quay 18 giờ, chậm hơn chu kỳ quay 16,1 giờ của từ trường hành tinh. Ngược lại, chu kỳ quay của hai vùng cực bằng 12 giờ. Sự khác nhau trong chu kỳ quay của khí quyển giữa các vùng là nổi bật nhất trong khí quyển của các hành tinh trong Hệ Mặt Trời,<ref>{{chú thích tạp chí