Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Ngô Duy Đông”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 73:
Năm 1958 – 1971 ông giữ chức Bí thư Tỉnh ủy Thái Bình. Năm 1958, Thái Bình đã có một vụ mùa cho năng suất cao nhất từ trước tới đó. So với năm 1939, là năm được mùa nhất dưới thời Pháp, thì tổng sản lượng lúa của tỉnh tăng 2,56 lần, tăng 4 vạn tấn lúa so với mùa năm 1957, trở thành tỉnh dẫn đầu miền Bắc về năng suất lúa. Huyện Tiên Hưng đã đạt năng suất bình quân 32 tạ/ha/năm. Đời sống của nhân dân, nhất là của nông dân, đã được cải thiện một cách cơ bản. Nhờ thắng lợi đó, mà phong trào đổi công, hợp tác được củng cố, phát triển. Kết thúc năm 1960, Thái Bình đã cơ bản hoàn thành nhiệm vụ cải tạo XHCN, xây dựng các HTX Nông nghiệp, HTX Tiểu thủ công nghiệp trong toàn tỉnh.
 
Năm 1971 - 1972 ông làm Ủy viên Ủy ban Nông nghiệp Trung ương, sau đó được phân công làm Bí thư Tỉnh ủy Hải Hưng (Hải dương và Hưng Yên) đến năm 1980 <ref>http://www.hungyen.gov.vn/Pages/toan-canh-67/lich-su-van-hoa-du-lich-79/lich-su-hung-yen-116/Hung-Yen-hop-nhat-voi-Hai-9ae788682030d20f.aspx</ref>.
 
Tại Đại hội Đảng IV (1976) ông được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
Dòng 81:
Năm 1983 ông tái nhiệm Bí thư Tỉnh ủy Hải Hưng (đến năm 1986) <ref>http://hungyentv.vn/phohien/171/5918/Lich-su-hung-yen/Dang-bo-tinh-Hung-Yen-70-nam-xay-dung-va-truong-thanh-1941--2011.htm </ref>.
 
Ông nghỉ hưu năm 1988 và mất vào những năm 1990 tại Hà nội, an táng tại Nghĩa trang Mai Dịch.
 
==Chú thích==