Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Anna Freud”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n General Fixes
Dòng 25:
|parents = [[Sigmund Freud]]<br/>[[Martha Bernays]]
}}
'''Anna Freud''' (3 tháng 12 năm 1895 – 9 tháng 10 năm 1982) đứa con thứ 6 và cuối cùng của nhà tâm lý học [[Sigmund Freud]] và vợ [[Martha Bernays]]. Sinh ra tại [[Vienna]], Anna theo nghiệp của cha và đóng góp trong lĩnh vực tâm lý học mới là phân tâm học - [[psychoanalysis]]. Cùng với [[Melanie Klein]], Anna được xem người sáng lập ra phân tâm học trẻ em <ref>{{citechú bookthích sách |title=[[The Jewish 100]]: A Ranking of the Most Influential Jews of All Time |last=Shapiro |first=Michael |authorlink= Michael Jeffrey Shapiro |year= 2000 |publisher= |location= |isbn= |page= 276 |pages= |url=}}</ref> So với [[Sigmund Freud]], sự nghiệp của Anna nhấn mạnh vào tầm quan trọng của cái tôi - [[Id, ego and super-ego|ego]] và khả năng đào tạo của nó.
 
==Tiểu Sử==
Dòng 32:
Anna Freud dường như đã chịu một tuổi thơ không hạnh phúc, khi còn nhỏ Anna không bao giờ có quan hệ gần gũi và thoải mái với mẹ, Anna được nuôi dưỡng hoàn toàn bởi Josephine, một bà sơ Công giáo <ref>Adam Phillips, ''On Flirtation'' (London 1994) p. 92</ref> Anna gặp khó khăn trong mối quan hệ với anh chị em ruột, đặc biệt với chị gái Sophie Freud (cũng như là rắc rối với chị họ Sonja Trierweiler, "ảnh hưởng xấu" đối với Anna).
 
Anna Freud không được học nhiều tại trường; Thay vì đó Anna ở nhà học rất nhiều từ cha và khách của ông. Đó là cách Anna học lõi tiếng Do thái, Đức, Anh, Pháp và Italia. Khi 15 tuổi, cô bắt đầu đọc các nghiên cứu của cha cô. Anna tốt nghiệp trường Cottage Lyceum tại Vienna, vào năm 1912. Cô chịu chứng trầm cảm và dao động về tương lai. Sau đó, cô đến [[Italy]] ở với bà, có bằng chứng cho rằng năm 1914 cô một mình đến Anh để học tiếng Anh',<ref>''Anna'' (1993) p. 1</ref> Nhưng chỉ được một thời gian ngắn do sự bùng nổ của chiến tranh .
 
Năm 1914 cô thi đậu và trở thành thực tập sinh tại trường cũ của mình - Cottage Lyceum. Từ 1915 đến 1917, Anna trở thành thực tập sinh và giảng dạy tại đây từ 1917 đến 1920. Anna sớm từ bỏ công việc giảng dạy vị bệnh lao. Năm 1918, Cha cô bắt đầu các nghiên cứu Phân tâm học trên Anna và cô bắt đầu nghiên cứu nghiêm túc ngành tâm lý học. Các phân tích của cô hoàn thành vào năm 1922 và sau đó cô xuất bản nghiên cứu ''"Nhịp đập của trí tưởng tượng và những mộng tưởng"''<ref>[http://www.freud-museum.at/freud/themen/anna1-e.htm Anna Freud 1895 - 1938]{{dl|date=November 2014}}</ref> cô tham gia Hội Tâm lý học Vienna, và trở thành thành viên. Năm 1923, Anna bắt đầu thực hành các nghiên cứu tâm lý của mình trên trẻ em và co giảng dạy tại viện đào tạo tâm lý học Vienna dựa trên các kỹ thuật nghiên phân tích tâm lý trẻ em. Từ 1925 đến 1934, Anna là thư ký của Hiệp hội tâm lý quốc tế - [[International Psychoanalytical Association]], và tiếp tục thực hiện các nghiên cứu,hội thảo, buổi nói chuyện về chủ đề phân tích tâm lý trẻ em . Năm 1935, Anna trở thành giám đốc của viện đào tạo tâm lý học Vienna. Trong những năm tiếp theo Anna xuất bản các nghiên cứu về " Những phương pháp và phương tiện trách khó chịu và lo âu của cái tôi " - "ways and means by which the ego wards off displeasure and anxiety", ''Cái tôi và cơ chế phòng vệ - The Ego and the Mechanisms of Defence''. Các nghiên cứu đó tạo nền móng cơ bản cho tâm lý học về cái tôi [[ego psychology]] và đem lại danh tiếng cho Anna như là nhà lý luận tiên phong trong lĩnh vực này.
 
===Những năm tháng tại London===
Dòng 42:
Chiến tranh đem lại cho Anna cơ hội quan sát sự t triển tâm lý trẻ em khi bị không có sự chăm sóc của cha mẹ. Anna thành lập trung tâm cho trẻ em là nạn nhân chiến tranh được gọi là "Trại trẻ Hampstead" - "The Hampstead War Nursery". Tại đây những đứa trẻ phải tự chăm sóc mặc dù có khuyến khích cha mẹ thường xuyên đến thăm. sau chiến tranh, Anna tiếp tục thực hiện tại ''Bulldogs Bank Home'', nơi chăm sóc các đứa trẻ mồ côi, hoạt động nhờ các cộng sự của bà. Dựa trên những quan sát đó Anna cùng với bạn là [[Dorothy Burlingham|Dorothy Tiffany-Burlingham]] xuất bản bộ sách về các tác động đến trẻ em và khả năng tìm kiếm sự thay thế ảnh hưởng giữa các người chăm sóc thay thế khi không có cha mẹ.
 
Từ những năm 1950 đến cuối đời Anna thường xuyên qua Hoa kỳ để diễn thuyết, giảng dạy và thăm bạn bè. Anna được phong tặng thành viên danh dự của Viện hàm lâm Hoa kỳ - [[American Academy of Arts and Sciences]] vào năm 1959.<ref name=AAAS>{{citechú thích web|title=Book of Members, 1780–2010: Chapter F|url=http://www.amacad.org/publications/BookofMembers/ChapterF.pdf|publisher=American Academy of Arts and Sciences|accessdate=29 July 2014}}</ref> Trong suốt những năm 1970 bà quân tâm đến các vấn đề rối loạn cảm xúc.
 
Anna mất tại [[London]] vào ngày 9 tháng 10 năm 1982. Bà được hỏa táng tại [[Golders Green Crematorium]].
Dòng 64:
 
==Tham khảo==
{{reflisttham khảo|30em}}
 
==Đọc thêm==
===Tiểu sử===
*{{citechú bookthích sách|last=Coles|first=Robert|title=Anna Freud: The Dream of Psychoanalysis|year=1992|publisher=[[Addison-Wesley]]|location=Reading, Mass.|isbn=0-201-57707-0}}
*{{citechú bookthích sách|last=Peters|first=Uwe Henrik|title=Anna Freud: A Life Dedicated to Children|year=1985|publisher=Schocken Books|location=New York|isbn=0-8052-3910-3}}
*{{citechú bookthích sách|last=Young-Bruehl|first=Elisabeth|authorlink=Elisabeth Young-Bruehl|title=Anna Freud: A Biography|year=1988|publisher=Summit Books|location=New York|isbn=0-671-61696-X}}
 
===Hồi ký hư cấu===
*{{citechú bookthích sách|last=Coffey|first=Rebecca|title=Hysterical: Anna Freud's Story|year=2014|publisher=She Writes Press|location=New York|isbn=9781938314421}}
 
==Liên kết bên ngoài==