Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Quan Âm”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Đã lùi lại sửa đổi thiện ý của 71.174.24.29: Thói quen người dân gọi vậy, ngay truyện cũng tên là Quan Âm Thị Kính, ko nên sửa. (TW)
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 1:
[[Tập tin:KuanYinCoréeDetail.jpg|nhỏ|150px|phải|Tượng Quán Thế Âm theo nguyên bản Bắc Tông]]
'''QuanQuán Âm''' (zh. 觀音, ja. ''kannon''), nguyên là [[Quán Thế Âm]] nhưng do tránh chữ '''Thế''' trong tên nhà [[vua]] [[nhà Đường|Đường]] là [[Đường Thái Tông|Lý Thế Dân]] nên gọi là QuanQuán Âm hoặc Quán Âm, là tên của Bồ Tát [[Quán Thế Âm]] (zh. 觀世音, sa. ''avalokiteśvara'') tại [[Trung QuốcHoa]], [[Việt Nam]] và các nước lân cận. Phật tử Trung QuốcHoa thường thờ cúng QuanQuán Âm bên cạnh các vị [[Bồ Tát]] [[Phổ Hiền]] (zh. 普賢, sa. ''samantabhadra''), [[Địa Tạng Bồ Tát|Địa Tạng]] (zh. 地藏, sa. ''kṣitigarbha'') và [[Văn-thù-sư-lợi]] (zh. 文殊師利, sa. ''mañjuśrī''). Đó là bốn vị Đại Bồ Tát của Phật giáo [[Trung QuốcHoa]].
 
QuanQuán Âm hiện thân trong mọi hình dạng để cứu độ chúng sinh, nhất là trong các nạn lửa, nước, quỷ dữ và đao kiếm. [[Phụ nữ]] không con cũng hay cầu QuanQuán Âm. QuanQuán Âm cũng hay được nhắc tới bên cạnh Phật [[A-di-đà]] (sa. ''amitābha'') và trong kinh ''[[Diệu pháp liên hoa kinh|Diệu pháp liên hoa]]'', phẩm 25 với tên ''Phổ môn'', các công hạnh của Bồ Tát trình bày rõ ràng và tán thán. Tại Trung QuốcHoa và Việt Nam, QuanQuán Âm hay được diễn tả dưới dạng nữ nhân.
 
Trong thần thoại, văn học bác học (như tác phẩm [[Tây du ký|Tây Du Ký]] của Trung QuốcHoa), văn học dân gian, hay trong kinh sách nhà Phật (ví dụ phẩm [[Phổ môn]]), thì Quán Thế Âm Bồ Tát được xem là vị Bố Tát có thần lực nhất, chỉ sau Phật Tổ. Điều này có thể là do Quán Âm là vị Bồ Tát cứu độ chúng sanh và là Bồ Tát đặc trưng cho tinh thần của Phật giáo [[Đại thừa]] - giác tha, có nghĩa là cứu vớt và giác ngộ người khác - cho nên có thể Phật giáo Đại thừa đã nâng ngài lên tầm quan trọng như vậy, khác biệt với Phật giáo [[Tiểu thừa]]. Điều này càng làm tăng lòng sùng kính của người theo đạo Phật đối với Quán Âm. Trong mọi ngôi chùa, thường thì chính giữa là tượng đức Phật Tổ, hai bên là tượng Quán Thế Âm Bồ Tát và [[Đại Thế Chí|Đại Thế Chí Bồ Tát]], tuy nhiên ở ngoài khuôn viên chùa hầu hết đều có tượng đức Phật Tổ hay Quán Thế Âm mà không thấy hoặc ít thấy hơn tượng của các vị Phật hay Bồ Tát khác.
 
Tranh tượng thường trình bày QuanQuán Âm dưới nhiều dạng khác nhau, nhưng phổ biến nhất là dạng một vị Bồ Tát nghìn tay nghìn mắt. Có khi QuanQuán Âm ẵm trên tay một đứa bé, có khi một đồng tử theo hầu. Người ta cũng hay vẽ QuanQuán Âm hiện trong mây, hoặc cưỡi [[rồng]] trên [[thác|thác nước]]. Hình ảnh QuanQuán Âm đứng trên một hải đảo cứu người bị nạn cũng phổ biến, biển cả tượng trưng cho Luân hồi. Tay QuanQuán Âm thường cầm hoa [[hoa sen (Phật giáo)|hoa sen]] hay bình nước [[Cam lồ]].
 
Danh xưng Quán Thế Âm là xuất phát từ một truyền thuyết của Phật giáo, tin rằng những người tu hành đạt tới chính quả, thì ngũ giác của họ có thể dùng chung được. Nghĩa là họ có thể dùng tai để "nhìn" thấy hình ảnh, dùng mắt để "nghe" thấy âm thanh, lưỡi có thể ngửi được v.v. Theo lòng tin này, thì danh xưng Quán Thế Âm Bồ Tát có nghĩa là: vị Bồ Tát luôn "nhìn thấy" tiếng ai oán, đau khổ trong bến mê của chúng sinh và sẵn sàng cứu giúp hay nói pháp khi cần.
 
Theo quan niệm Trung QuốcHoa, QuanQuán Âm ngự tại Phổ-đà Sơn, miền Đông Trung QuốcHoa, đó là một trong [[Các núi linh thiêng của Trung QuốcHoa#Tứ đại danh sơn|Tứ đại danh sơn]], là bốn trú xứ của bốn Đại Bồ Tát của [[Phật giáo Trung QuốcHoa]].
[[Hình:Tượng Quán Thế Âm ở Bạc Liêu.jpg|nhỏ|150px|trái| Tượng Quán Thế Âm cao 11[[m]] ở [[Bạc Liêu]]]]
Tại Trung QuốcHoa - đến [[thế kỷ 10|thế kỉkỷ 10]] - QuanQuán Âm còn được giữ dưới dạng [[nam giới]], thậm chí trong hang động ở Đôn Hoàng, người ta thấy tượng QuanQuán Âm để râu. Đến khoảng thế kỉkỷ thứ 10 thì QuanQuán Âm được vẽ mặc áo [[trắng]], có dạng nữ nhân. Có lẽ điều này xuất phát từ sự trộn lẫn giữa [[phật giáo|đạo Phật]] và [[đạo giáo|đạo Lão]] trong thời này. Một cách giải thích khác là ảnh hưởng của [[Mật tông]] (xem [[Đát-đặc-la|Tantra]]) trong thời kỳ này: đó là hai yếu tố Từ bi (sa. ''maitrī-karuṇā'') và Trí huệ (sa. ''prajñā'') được thể hiện thành hai dạng nam nữ, mỗi vị Phật hay Bồ Tát trong Mật tông đều có một "quyến thuộc" nữ nhân. Vị quyến thuộc của Quán Thế Âm được xem là vị nữ thần áo trắng [[Đa-la]] (sa. ''tārā''), và Bạch Y QuanQuán Âm là tên dịch nghĩa của danh từ đó. Kể từ đó quần chúng Phật tử Trung QuốcHoa khoác cho Quan Âm áo trắng và xem như là vị Bồ Tát giúp phụ nữ hiếm muộn.
 
Một trong các do đó là đối với Phật Giáo, Phật không phân biệt nam hay nữ. Khác với các thần thoại sơ khai quan niệm các vị thần có giới tính và co sự sinh sản, Phật giáo và các tôn giáo lớn trên thế giới không cho rằng thần của họ có giới tính và sự sinh sản. Do đó việc quan niệm Quán Âm là nam hay nữ không phải là vấn đề quan trọng trong Phật giáo. Vả lại, theo phẩm [[Phổ môn]], khi muốn cứu vớt hoặc giác ngộ cho chúng sinh, Quán Âm có thể hóa thành 32 sắc tướng<ref>[http://www.quangduc.com/coban/30botatquanam-httq.html Bồ Tát QuanQuán Âm] của Thích Trí Quảng</ref> như Phật, Bồ Tát, [[Càn-thát-bà]], thiện nam, tín nữ v.v... tùy theo đối tượng để cứu giúp chúng sanh.
 
Có rất nhiều huyền thoại về Bồ Tát Quan Âm. Theo một huyền thoại Trung QuốcHoa thì QuanQuán Âm là con gái thứ ba của một nhà vua. Lớn lên, mặc dù vua cha ngăn cản nhưng công chúa quyết đi tu. Cuối cùng vua nổi giận, sai đem giết nàng. Diêm vương đưa nàng vào địa ngục, ở đó công chúa biến địa ngục thành [[Tịnh độ]], cứu giúp người hoạn nạn. Diêm Vương thả nàng ra và công chúa tái sinh lại trên núi Phổ-đà biển Đông và trở thành người cứu độ cho ngư dân. Đến khi vua cha bị bệnh nặng, nàng cắt thịt đắp lên chỗ bệnh. Nhà vua khỏi bệnh và nhớ ơn, cho tạc tượng nàng. Tương truyền rằng, vì hiểu lầm ý của nhà vua mà người ta tạc nên bức tượng nghìn tay nghìn mắt, được lưu truyền đến ngày nay.
 
Tại Trung QuốcHoa, các ngư dân thường cầu nguyện QuanQuán Âm để được bình an trong các chuyến đi đánh cá. Vì thế có Quan Âm cũng có biệt hiệu "QuanQuán Âm Nam/Đông Hải".
 
QuanQuán Âm bồ tát cũng chính là Từ Hàng đạo nhân trong [[Phong thần diễn nghĩa]]
Ở [[Việt Nam]], Nguyên phi [[Ỷ Lan]] được nhân dân gọi là QuanQuán âm nữ, được thờ ở [[Chùa Bà Tấm]].
 
===QuanQuán Âm Thị Kính===
Một sự tích được phổ biến tại [[Việt Nam]] là '''QuanQuán Âm Thị Kính''', kể rằng ngài đã đầu thai và tu hành 9 kiếp. Trong kiếp thứ 10, ngài được đầu thai làm một con gái trong một gia đình họ Mãng ở nước [[Cao Ly]] (ở bán đảo [[Triều Tiên/Đại Hàn]] ngày nay), và được đặt tên là [[Thị Kính]].
[[Tập tin:QuanQuán Âm Diệu Thiện.jpg|nhỏ|200px|phải|Tượng QuanQuán Âm Thị Kính Tống Tử, tay ẵm đứa bé, bên phải là Thiện Tài Đồng Tử]]
Thị Kính được gả cho Thiện Sĩ của gia đình họ Sùng. Khi ở nhà chồng, Thị Kính giữ phận làm dâu, tôn kính phụng dưỡng bố mẹ chồng. Một hôm, khi Thiện Sĩ đang ngủ sau khi đọc sách, Thị Kính thấy ở cầmcằm của chồng mình có mọc sợi râu. Thị Kính đang may vá nên cằmcầm một con dao nhíp trong tay và sẵn tiện cắt đứt sợi râu. Thiện Sĩ giật mình thức giấc, thấy vợ đang cầm dao gần cổ, tưởng rằng Thị Kính đang định giết mình nên la lên.
 
Sau khi Thị Kính kể lể đầu đuôi, cha mẹ chồng vẫn ngờ rằng Thị Kính có âm mưu giết chồng, bắt Thiện Sĩ phải bỏ vợ. Thị Kính phải trở về nhà cha mẹ mình, quyết định xuất gia đi tu. Bà cải trang thành một người nam giới, trốn nhà đến chùa xin đi tu, lấy pháp danh là Kính Tâm.
 
Tuy là gái giả trai, nên Kính Tâm có tướng mạo đẹp đẽ, cho nên có nhiều tín nữ ngưỡng mộ. [[Thị Mầu]], con của một trưởng giả giàu có, trêu ghẹo Kính Tâm, nhưng không được đáp lại. Thị Mầu lại có thai với người đầy tớ. Khi bị tra hỏi, Thị Mầu khai rằng Kính Tâm là cha của thai nhi. Kính Tâm tuy kêu oan nhưng không dám tiết lộ ra bí mật của mình. Sau đó, Kính Tâm phải tu ở ngoài cổng chùa để chùa không bị mang tiếng.
 
Thị Mầu sinh ra được một đứa con trai, đem đứa nhỏ đến chùa gửi cho Kính Tâm. Kính Tâm vì tính thương người, nhận đứa trẻ vào nuôi dưỡng. Khi đứa trẻ lên 3 tuổi thì Kính Tâm bị bệnh nặng. Biết mình sắp chết, Kính Tâm dặn dò đứa trẻ đưa thư cho sư cụ của chùa và cho ông bà họ Mãng.
Dòng 36:
Sau khi đọc rõ sự tình, sư cụ kêu người khám xét thi thể Kính Tâm, mới biết rằng Kính Tâm là gái giả trai. Thị Mầu xấu hổ, đành phải tự tử. Thiện Sĩ ăn năn, bèn đi tu, sau này biến thành một con chim.
 
QuanQuán Âm Bồ Tát (Thị Kính sau khi chết) cũng cứu độ đứa con nuôi, con ruột của Thị Mầu, đem về [[Biển Đông|Nam Hải]], để làm người hầu.
 
Do đó, người ta họa hình QuanQuán Thế Âm Bồ Tát đội mũ ni xanh, mặc áo tràng trắng, ngự trên tòa sen, bên tay mặt có con chim mỏ ngậm xâu chuỗi bồ đề, bên dưới có đứa trẻ bận khôi giáp chắp tay đứng hầu.
 
Sự tích QuanQuán Âm này trong [[văn học Việt Nam]] có mặt qua bản [[QuanQuán Âm Thị Kính (truyện thơ)|truyện thơ QuanQuán Âm Thị Kính]].
 
===QuanQuán Âm Diệu Thiện===
[[Tập tin:Chùa Bái Đính, tượng Quan Âm.JPG|nhỏ|200px|phải|Tùy tướng Quán Thế Âm - Thiên Thủ Thiên nhãn]]
Truyền thuyết QuanQuán Âm Diệu Thiện được truyền miệng trong dân gian Việt Nam qua lối truyện thơ. [[Thơ|Bài thơ]] viết theo [[thơ#Lục bát|thể lục bát]] nói về một vị công chúa đã xuất gia ở Việt Nam để độ hoá cho vua cha có nhiều tội ác. Sự tích này cũng có một dị bản lưu hành ở Trung Hoa.
 
Vị công chúa này, nguyên ở nước Hùng Lâm thuộc [[Ấn Độ]], là người con gái thứ ba của một vị vua. Trước khi sinh công chúa Diệu Thiện thì nhà vua rất mong có hoàng tử nên đã cầu xin rất nhiều nhưng đứa con chào đời lại là một công chúa. Điều này đã làm cho nhà vua sinh lòng oán hận.
Dòng 60:
==Xem thêm==
*[[Quán Thế Âm]]
*[[Tượng QuanQuán Thế Âm|Tượng QuanQuán Âm]]
==Chú thích==
{{tham khảo}}