Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Nguyễn Công Hãng”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi |
|||
Dòng 1:
'''Nguyễn Công Hãng''' (chữ Hán: 阮公沆, [[1680]]
Ông giữ các chức quan như đề hình, thiêm đô ngự sử, đốc trấn Cao Bằng (từ tháng 12 năm 1715)<ref name=VB55 />, tả thị lang [[bộ Binh]]<ref name=VB55 />, nhập thị bồi tụng, thượng thư, tước Sóc quận công, sau thăng thiếu bảo, kiêm chức ngự sử đài chánh chưởng, thượng thư [[bộ Lại]], hàm Thái tử thái phó, sau lại thăng thái bảo, xếp vào hạng tá lý công thần và được cử làm chánh sứ<ref name=VB55 /> sang [[nhà Thanh]] tháng 4 năm 1718<ref name=KDVS35 />. Năm 1720, thăng tham tụng<ref name=VB55 />. Sau do Trịnh Giang nghe lời dèm pha bèn giáng chức điều ông đi làm thừa chính sứ Tuyên Quang và bắt ép ông phải tự tử<ref name=VB55 />.
Ông có nhiều đóng góp tích cực cho chính sách cai trị của triều đình [[nhà Hậu Lê|Lê]]-[[chúa Trịnh|Trịnh]] đầu [[thế kỷ 18]] và là người có công chấm dứt{{fact}} việc "cống người vàng" hay "nợ Liễu Thăng" của Việt Nam với triều đình [[phong kiến]] [[Trung Quốc]].
==Tiểu sử==
Nguyễn Công Hãng tự
Ông đỗ
==Sửa tô thuế==
Gặp minh chúa An Đô vương [[Trịnh Cương]] là người tận tuỵ công việc và biết trọng dụng nhân tài, Nguyễn Công Hãng cùng các văn thần Lê Anh Tuấn, Nguyễn Công Cơ phát huy được nhiều tài năng thời đó. Ông được tin tưởng cất nhắc làm
Theo lệ lúc đó, cứ đo công điền công thổ mà đánh thuế, gọi là "thuế", chia ra làm ba hạng. Hạng nhất mỗi mẫu đồng niên đóng 1 quan, hạng nhì 8 tiền, hạng ba 6 tiền. Những sưu dịch như là việc tế tự trong đền vua phủ chúa, việc sửa sang trường thi, việc làm cầu cống, đắp đường sá, giữ đê điều v.v.... thì cứ tùy nghi mà bổ cho các suất đinh để lấy tiền mà cung ứng cho đủ.
Hàng 13 ⟶ 17:
Thấy việc này chưa hợp lý, năm 1723, Nguyễn Công Hãng theo phép tô, phép dung và phép điệu của [[nhà Đường]] mà châm chước, sửa sang lại, dâng lên chúa Trịnh Cương, được chúa tán đồng ban hành như sau:
*''Phép tô'', tức là phép đánh thuế điền thổ, cứ mỗi mẫu công điền là phải nạp 8 tiền thuế, mà ruộng nào cấy hai mùa thì chia ba, quan lấy một phần thóc. Những đất bãi của quan, cứ mỗi mẫu nạp thuế 1 quan 2 tiền; chỗ nào trồng dâu thì nộp một nửa bằng tơ, chỗ nào không trồng dâu thì nộp cả bằng tiền. Các ruộng tư điền ngày trước không đóng thuế, đến bây giờ mới đánh: ruộng hai mùa mỗi mẫu 3 tiền, ruộng một mùa mỗi mẫu 2 tiền<ref name=KDVS36>[http://gralib.hcmuns.edu.vn/greenstonelib/library?e=d-000-00---0sachlich--00-0-0--0prompt-10---4------0-1l--1-vi-50---20-about---00031-001-1-0utfZz-8-00&a=d&c=sachlich&cl=CL1&d=HASH0149d39c1237094672279282.42 Khâm định Việt sử thông giám cương mục: Chính biên quyển 36]</ref>.
*''Phép dung'', tức là phép đánh thuế thân, cứ mỗi suất đinh là đồng niên đóng 1 quan 2 tiền. Những người sinh đồ, lão hạng và hoàng đinh
*''Phép điệu'', tức là phép bắt dân đóng tiền sưu dịch, cứ mỗi một suất đinh, một năm 2 mùa, mùa hạ phải đóng 6 tiền, mùa đông phải đóng 6 tiền. Quan lấy tiền ấy mà làm các việc, không phiền đến dân nữa<ref name=KDVS36 />.
Cùng năm đó, ông kiến nghị Trịnh Cương cho phép dân chúng được yết bảng góp ý kiến với quan lại địa phương. Trịnh Cương đồng tình cho thi hành, bố cáo gửi các địa phương có ghi rõ: ''“Những điều yết lên bảng phải xuất phát từ lẽ công bằng, cả loạt đều cùng một giọng. Người nào yết ghép theo ý mình, khen chê bậy bạ sẽ bị tội”''.
==Dứt ''nợ Liễu Thăng''==
{{Thiếu nguồn gốc}}
Thời [[nhà Hậu Lê]] mới thành lập sau [[khởi nghĩa Lam Sơn]], [[nhà Minh]] tuy thừa nhận [[Lê Lợi]] làm vua Việt Nam (phong An Nam quốc vương) nhưng yêu sách nhà Lê mỗi khi sang sứ phải mang theo "người vàng Liễu Thăng" để đền mạng cho đại tướng Liễu Thăng bị quân Lam Sơn giết ở trận Chi Lăng năm 1427 và sản vật địa phương sang nhà Minh để cầu phong.▼
[[Thể loại:Hoàn toàn không có nguồn tham khảo từ 2009-05-29]]
[[Thể loại:Hoàn toàn không có nguồn tham khảo]]
▲Thời [[nhà Hậu Lê]] mới thành lập sau [[khởi nghĩa Lam Sơn]], [[nhà Minh]] tuy thừa nhận [[Lê Lợi]] làm vua Việt Nam (phong An Nam quốc vương) nhưng yêu sách nhà Lê mỗi khi sang sứ phải mang theo "người vàng Liễu Thăng" để đền mạng cho đại tướng Liễu Thăng bị quân Lam Sơn giết ở trận Chi Lăng năm 1427 và sản vật địa phương sang nhà Minh để cầu phong<ref name=KDVS14>[http://gralib.hcmuns.edu.vn/greenstonelib/library?e=d-000-00---0sachlich--00-0-0--0prompt-10---4------0-1l--1-vi-50---20-about---00031-001-1-0utfZz-8-00&a=d&c=sachlich&cl=CL1&d=HASH0149d39c1237094672279282.20 Khâm định Việt sử thông giám cương mục: Chính biên quyển 14] trích dẫn: Sản vật địa phương: Người vàng thế mạng 2 pho, lư hương bằng bạc 1 chiếc, bình hoa bằng bạc 1 đôi, lụa ta (thổ quyến) 30 tấm, ngà voi 14 đôi, hương xông (huân hương) 12 bình, hương vòng (tuyến hương) 20000 vòng, trầm hương và tốc hương 24 cân.</ref>.
Để giữ yên bờ cõi, chấm dứt chiến tranh, nhà Lê từ [[Lê Thái Tổ]] phải chấp nhận lệ cống người vàng đó không dứt. Việc đó sang thời Lê trung hưng vẫn phải tiếp tục.
Thời Nguyễn Công Hãng, [[nhà Thanh]] đã diệt nhà Minh lên thay. Tháng 4 năm 1718, ông được cử đi sứ<ref name=KDVS35 />. Khi lên đường, ông đề nghị triều đình thôi không làm người vàng theo thường lệ{{fact}}.
Sang đến đất Trung Quốc gặp quan lại nhà Thanh, quan tiếp sứ xét đồ cống phẩm không có người vàng Liễu Thăng. Họ mang câu chuyện Liễu Thăng ra hạch sách, Nguyễn Công Hãng cười trả lời{{fact}}:
:''"Liễu Thăng là tên bại tướng của nhà Minh, nhà Hoàng Thanh ta ngày nay bao gồm có cả muôn nước, lại đi khư khư đòi món của đút để trả mối thù của người xưa, như vậy sao đủ để làm khuôn mẫu cho người sau?"''
Người Thanh chịu không bắt bẻ việc cống người vàng nữa. Lệ cống khi đó còn phải có một hũ nước giếng để rửa ngọc trai, nước phải lấy từ giếng nước trước đền thờ [[An Dương
:''Vì khí mạch lâu ngày đã biến đổi đi rồi.''
Người Thanh cũng chịu không hạch sách nữa. Do có tài ngoại giao khéo léo, ứng biến linh hoạt của Nguyễn Công Hãng mà từ đấy về sau, hai thứ đồ cống đó được miễn{{fact}}.
==Vạ can gián==
Nguyễn Công Hãng được cử làm thái phó cho thế tử [[Trịnh Giang]] – con cả Trịnh Cương. Thấy Giang bất tài, không có tư cách làm chúa, Nguyễn Công Hãng đã dâng một mật sớ tâu An Đô vương Trịnh Cương nhận xét rằng: ''"Trịnh Giang là người ươn hèn không thể gánh vác được ngôi chúa."''<ref name=KDVS37>[http://gralib.hcmuns.edu.vn/greenstonelib/library?e=d-000-00---0sachlich--00-0-0--0prompt-10---4------0-1l--1-vi-50---20-about---00031-001-1-0utfZz-8-00&a=d&c=sachlich&cl=CL1&d=HASH0149d39c1237094672279282.43 Khâm định Việt sử thông giám cương mục: Chính biên quyển 37]</ref>
Nhưng Trịnh Cương chưa kịp suy xét thì
Năm 1732, có người gièm pha ông và tâu với Trịnh Giang việc ông muốn thay ngôi thế tử<ref name=KDVS37 />. Vì thế ông bị Trịnh Giang giáng chức tháng 10 âm lịch năm đó xuống thành thừa chính sứ Tuyên Quang rồi tìm cách bức tử chỉ sau một tháng<ref name=KDVS37 />.
Đến đầu đời Cảnh Hưng (1740
==Nhà thơ==
Trong thời gian làm chánh sứ sang Trung Quốc, Nguyễn Công Hãng đã để lại tập thơ đi sứ ''“Tinh sà kỉ hành”''<ref>[http://www.vienvanhoc.org.vn/reader/?id=94&menu=107 "Thơ bang giao" chữ Hán Việt Nam trong sự giao lưu văn hoá Việt Nam và Trung Quốc trên lịch sử Trung đại]</ref> gồm những bài thơ tả tình, vịnh cảnh, thù tiếp sứ bộ Triều Tiên v.
▲Trong thời gian làm chánh sứ sang Trung Quốc, Nguyễn Công Hãng đã để lại tập thơ đi sứ ''“Tinh sà kỉ hành”'' gồm những bài thơ tả tình, vịnh cảnh, thù tiếp sứ bộ Triều Tiên... Theo [[Phan Huy Chú]], thơ Nguyễn Công Hãng ''“có khí cách thanh nhã, trôi chảy, đáng đọc”''.
Thơ ông đề cập đến trách nhiệm của người cầm quyền, đến truyền thống văn hiến và vận mệnh của đất nước. Ông còn viết về nếp sống chất phác, đức tính giàu tín nghĩa của quê hương.
Tương truyền ông sống cùng thời và có giao du với nữ sĩ [[Đoàn Thị Điểm]]<ref>[http://www.hdvietnam.net/vanhoa/vanhoc/chinhphungam.html Chinh phụ ngâm khúc]</ref>.
==Chú thích==
{{reflist}}
==Liên kết ngoài==
*[http://www.qdnd.vn/qdnd/baongay.vanhoa.doisongvanhoa.12391.qdnd Vì sao chấm dứt "lệ cống người vàng Liễu Thăng"]
Hàng 70 ⟶ 73:
==Tham khảo==
* Việt Nam sử lược
* [[Khâm định Việt sử Thông giám Cương mục]]
[[Thể loại: Quan nhà Hậu Lê]]
|