Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Nhà Hạ”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n Liên kết hỏng
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 1:
{| class="infobox bordered" style="align: right; width: 33em; font-size: 89%; text-align: left; float: right;" cellpadding="4"
{{dablink|Về quốc gia thời [[Ngũ Hồ thập lục quốc]], xem [[Hạ (thập lục quốc)]].}}
|-
{{Infobox Former Country
! colspan=3 colspan= bgcolor="#FFCCAA" style="font-size: 100%; text-align: center;" | Hạ
|native_name =
|-
|conventional_long_name =Nhà Hạ
| [[Thủ đô]] || Đô thành bất định
|common_name = Nhà Hạ
|-
|national_motto =
| Quân chủ<br />&nbsp;-Quân chủ khai quốc<br /> &nbsp;-Quân chủ diệt vong
|continent = Asia
| 17 vị{{NoteTag|name=16后|1=có thuyết nói 13 đời, 16 vua, sai biệt là ở chỗ định Vũ là quân chủ hay thủ lĩnh liên minh bộ lạc. Những người ủng hộ việc xác định Vũ là quân chủ cho rằng sách sử có ghi rằng Thuấn chết, Vũ để tang ba năm rồi xưng đế. Những người ủng hộ việc xác định Vũ là thủ lĩnh liên minh bộ lạc nói rằng Khải chiêu tập thủ lĩnh các bộ lạc xung quanh đến [[Cổ Quân Đài|Quân Đài]], đánh dấu việc Khải thông qua thế tập mà đoạt được quyền vị, đến đó xưng bá Trung Nguyên, bắt đầu vương triều thế tập Trung Quốc, cho nên triều Hạ bắt dầu từ Khải. "[[Đế vương thế kỷ]]" thì ghi 19 vương, có thêm [[Hậu Nghệ|Nghệ]] và [[Hàn Trác]].}}<br />[[Hạ Vũ|Vũ]], [[Hạ Khải|Khải]]{{NoteTag|name=16后}}<br />[[Hạ Kiệt|Kiệt]]
|region = Pacific
|-
|country = China
| '''Thành lập''' || khoảng [[thế kỷ 21 TCN]]
|era =
|-
|status = Vương quốc
| '''Diệt vong''' || khoảng [[thế kỷ 16 TCN]]<br />[[trận Minh Điều]]
|government_type = Quân chủ, Phong kiến
|-
|year_start = 2205 TCN
|colspan=3 align="center"|[[File:Region of xia.svg|300px|thumb| {{legend|#FF8401|Khu vực hoạt động của Hạ tộc}}]]
|year_end = 1766 TCN
|}
|p1 = Tam Hoàng Ngũ Đế
{{lịch sử Trung Quốc}}
|s1 = Nhà Thương
'''nhà Hạ''' hay '''triều Hạ''' ({{zh|c=夏朝|p=Xià Cháo|v=Hạ triều}}, khoảng thế kỷ 21 TCN-khoảng thế kỷ 16 TCN{{NoteTag|1=Liên quan đến niên đại hưng vong của triều Hạ, có nhiều thuyết suy tính. [[Hạ Thương chu niên biểu]] do [[Hạ Thương Chu đoạn đại công trình]] công bố ước tính là khoảng 2070 TCN- khoảng 1600 TCN, tồn tại trên dưới 470 năm{{RefTag|1={{Cite book|title=《[[Hạ Thương Chu niên biểu|夏商周年表]]》|publisher=[[Hạ Thương Chu đoạn đại công trình|夏商周断代工程]]|date=2000-11-09|language=Trung văn giản thể}}}}; [[Trúc thư kỉ niên|cổ bản Trúc thư kỉ niên]]" ghi rằng vận nước triều Hạ là 471 năm{{NoteTag|name=夏积年}}, suy tính là 1989 TCN─1559 TCN.{{NoteTag|name=竹书四七一年|1=[[Trúc thư kỉ niên|Cổ bản Trúc thư kỉ niên]]: 自禹至桀十七世,有王與無王,用歲四百七十一年。起壬子,终壬戌。(Từ [[Hạ Vũ|Vũ]] đến [[Hạ Kiệt|Kiệt]] 17 đời, có vương và không vương, trải qua 471 năm. Bắt đầu từ năm [[Nhâm Tý]], kết thúc vào năm [[Nhâm Tuất]]){{RefTag|name=竹書紀年|1=《[[Trúc thư kỉ niên|古本竹書紀]]》.}}{{RefTag|1={{Cite web|url=http://www.cnki.com.cn/Journal/H-H7-TJSS-1998-01.htm|title=夏、商、周三代纪年考辨——兼评《竹书纪年》研究的失误|author=吴晋生、吴薇薇|publisher=[[天津师范大学]]学报(社会科学版)|edition=1998年01期|accessdate=2010-12-05|language=Trung văn giản thể}}}}}}}}) là triều đại [[Trung Nguyên]] đầu tiên theo chế độ thế tập được ghi chép trong sách sử truyền thống Trung Quốc. Một số người cho rằng triều Hạ là liên minh nhiều bộ lạc hoặc quốc gia có hình thức tù bang phức tạp. Căn cứ theo ghi chép trong sách sử thì [[Tam Đại]] gồm Hạ, [[nhà Thương|Thương]], [[nhà Chu|Chu]] đều là vương triều phong kiến, quân chủ và chư hầu chia nhau mà cai trị{{RefTag|1={{Cite book|title=《中國文化史》|author=柳翼謀|date=1919|language=Trung văn phồn thể}}}}, và triều Hạ là vương triều phong kiến thị tộc thế tập đầu tiên.{{RefTag|name=晁福林|1={{Cite book|title=《夏商西周的社会变迁》|author=[[晁福林]]|publisher=[[北京师范大学]]出版社|date=1996年6月|isbn=7-303-04144-3|language=Trung văn giản thể}}}} Trong các văn vật thời kỳ Hạ, có số lượng nhất định lễ khí làm bằng [[đồng điếu|đồng thanh]] hoặc ngọc{{RefTag|1={{Cite book|title=《中国文物精华大全•青铜卷》|publisher=[[国家文物局]]、[[商務印書館(香港)]]、[[上海辞书出版社]]|date=1994年10月|isbn=962-07-5174-4|language=Trung văn giản thể}}}}{{RefTag|1={{Cite book|title=《中国文物精华大全•金银玉石卷》|publisher=国家文物局、商務印書館(香港), 上海辞书出版社|date=1994年10月|isbn=962-07-5174-4|language=Trung văn giản thể}}}}, niên đại của chúng ước tính là vào cuối [[Thời đại đồ đá mới]], đầu [[Thời đại đồ đồng]]{{RefTag|1={{Cite web|url=http://db1x.sinica.edu.tw/caat/caat_rptcaatc.php?_op=?SUBJECT_ID:300018354|title=《藝術與建築索引典》 夏 Xia|publisher=AAT-Taiwan 藝術與建築索引典|accessdate=2011-06-26|language=Trung văn phồn thể}}}}. Mặc dù ghi chép liên quan đến triều Hạ trong các văn hiến truyền thống Trung Quốc là khá nhiều, song các sách này được hoàn thành khá muộn sau đó, cho đến nay vẫn chưa phát hiện được chứng cứ trực tiếp để có thể công nhận sự tồn tại của triều Hạ, như văn tự đồng thời kỳ, do đó trong giới lịch sử học cận hiện đại có người nghi ngờ tính chân thực về sự tồn tại của triều Hạ. [[Văn hóa Nhị Lý Đầu]] phát hiện được ở tây bộ [[Hà Nam (Trung Quốc)|Hà Nam]] và nam bộ [[Sơn Tây (Trung Quốc)|Sơn Tây]] có các điều kiện cơ bản về niên đại và vị trí địa lý của văn hóa Hạ, song do chưa khai quật được các ghi chép văn tự giống như [[giáp cốt văn|giáp cốt]] [[bốc từ]] ở [[Ân Khư]], do vậy tính tồn tại của triều Hạ vẫn không thể chứng thực được.{{RefTag|name=音乐考古学}} Nhiều học giả trong và ngoài Trung Quốc nhận định rằng di chỉ Nhị Lý Đầu ở [[Yển Sư ]] thuộc Hà Nam có khả năng là di tích đô thành của triều Hạ ít nhất là trong thời kỳ thứ nhất và thứ nhì, song hiện vẫn đang phải tìm kiếm căn cứ xác thực để làm rõ.{{RefTag|name=晁福林}}{{RefTag|1={{Cite book|title={{Lang|en|The Cambridge History of Ancient China: From the Origins of Civilization to 221 B.C.}}|author={{Lang|en|Michael Loewe, Edward L. Shaughnessy}}|publisher=Cambridge University Press|date=1999-03-13|language=en|isbn=978-0521470308}}}}
|event_start = Thành lập nhà Hạ bởi [[Hạ Vũ]]
|date_event = 2205 TCN
|event1 = [[Hạ Khải]] nối ngôi
|date_event1 = 2197 TCN
|event_end = Nhà Hạ diệt vong
|date_event = 1766 TCN
|image_map = Xia dynasty.svg
|image_map_caption = Nhà Hạ
|capital = [[Đăng Phong]]
|common_languages = Tiếng Trung cổ đại
|Philosophy =
|religion = Tôn giáo dân gian Trung Quốc
|currency = Tiền Xu
|leader1 = Hạ Vũ
|leader2 = Hạ Khải
|year_leader1 = 2205-2198 TCN
|year_leader2 = 2197-2188 TCN
|title_leader = [[Danh sách vua Trung Quốc|Vua]]
|legislature =
|stat_year1 =
|stat_area1 =
|stat_pop1 =
}}
{{Lịch sử Trung Quốc}}
'''Nhà Hạ''' ({{zh|c={{linktext|夏|朝}} |p=Xià Cháo |w=Hsia-Ch'ao}}; khoản thế kỷ 21 TCN - 16 TCN) là triều đại đầu tiên ở [[Trung Quốc]] được mô tả trong các ghi chép sử học cổ đại như ''[[Sử ký Tư Mã Thiên|Sử ký]]'', ''[[Trúc thư kỉ niên]]'', ''[[Kinh Thư]]''. Triều đại này được vua [[Hạ Vũ|Đại Vũ]] <ref>Mungello, David E. ''The Great Encounter of China and the West, 1500–1800'' Rowman & Littlefield; 3 edition (28 Mar 2009) ISBN 978-0-7425-5798-7 p.97.</ref> huyền thoại thành lập sau khi [[Thuấn]], một trong [[Tam Hoàng Ngũ Đế|Ngũ Đế]] nhường ngôi cho ông. Nhà Hạ sau này được kế thừa bởi [[nhà Thương]].
 
Căn cứ theo ghi chép trong sử sách, Vũ truyền vị cho con là [[Hạ Khải|Khải]], cải biến [[thiện nhượng|thiện nhượng chế]] bộ lạc nguyên thủy, khởi đầu tiền lệ thế tập vương vị kéo dài 4000 năm trong lịch sử Trung Quốc.{{RefTag|name=中国早期国家性质|1={{Cite book|title=《中国早期国家性质》|author=李玉洁|publisher=河南大学出版社|date=1999年10月|isbn=7-81041-690-1|language=Trung văn giản thể}}}} Triều Hạ tổng cộng truyền được 14 đời với 17 vua,{{NoteTag|name=16后}} kế tục trong khoảng 471 năm{{NoteTag|name=夏积年|1=Liên quan đến vấn đề số năm tồn tại của triều Hạ, chủ yếu có 5 thuyết. Có thuyết cho là 470 năm, hay 471 năm, tức là theo "Trúc thư kỉ niên thể hệ" cổ bản, đây là quan điểm đa số. Lại có thuyết cho là 431 năm, hay 432 năm, căn cứ theo "Trúc thư kỉ niên thể hệ" kim bản hay "Nho gia kim bản", đây là quan điểm phổ biến thứ hai. Thuyết thứ ba thì cho là 440 năm{{RefTag|1=宋末元初•金履祥,《資治通鑑thế kỷ 編》.}}. Thuyết thứ tư cho là 458 năm, hay 459 năm{{RefTag|1=宋•邵雍,《皇極經世》、元•马端临,《文献通考》.}}. Thuyết thứ năm cho là 483 năm{{RefTag|1=宋•罗泌,《路史•後紀》.}}. Hai thuyết đầu tiên có sự khác biệt là do tính hay không tính thời kỳ "vô vương" kéo dài 40 năm khi [[Hậu Nghệ]] và [[Hàn Trác]] đoạt quyền.{{RefTag|1={{Cite journal|title=“夏代纪年考”|author=程平山|journal=《中原文物》|year=2004年|issue=第3期|location=中国天津}}}}. Cũng có giải thích rằng người thời trước tính từ khi [[Thuấn]] bắt đầu cai trị, còn người đời sau tính từ năm Hạ Vũ thứ nhất.{{RefTag|name=夏商周断代工程成果报告简本|1={{Cite book|title=《夏商周断代工程1996-2000年阶段成果报告(简本)》|author=夏商周断代工程专家组|publisher=世界图书出版公司|date=2000年10月|location=中国北京|isbn=7-5062-4138-2}}}}}}, bị [[triều Thương]] tiêu diệt. Triều Hạ được xem là vương triều đầu tiên theo lịch sử truyền thống Trung Quốc, có địa vị lịch sử khá cao, người Hán đời sau thường tự xưng là "Hoa Hạ", trở thành [[Tên gọi Trung Quốc|danh từ]] đại diện cho Trung Quốc.{{NoteTag|1=hai chữ "Hoa", "Hạ" hiện nay có âm đọc tương đồng trong các phương ngữ như [[tiếng Ngô]], các nhà ngôn ngữ học do vậy ước đoán rằng hai chữ này vào thời cổ là đồng âm đồng nghĩa. Chữ "Hạ" xuất hiện sớm nhất trong "[[Kinh Thư|Thượng thư]]- Nghiêu điểu": "[[Thuấn|Đế]] viết: '[[Cao Dao]] Man Di Hoạt Hạ, khấu tặc gian quỹ{{NoteTag|1=Liên quan đến câu "Man Di hoạt Hạ", có hai thuyết giải thích: Một thuyết cho rằng "Hoạt Hạ" tức là "Hoa Hạ", "Man Di" tương ứng với "Hoạt Hạ", hai bên vào thời kỳ Nghiêu Thuấn đều bị người Trung Nguyên xem là người Man ngoại tộc, giống như một chủng "khấu tặc gian quỹ". Từ "Hoa Hạ" sau khi triều Hạ được kiến lập thì mới chuyển từ chê thành khen. Có thuyết nói chữ "hoạt" là động từ, có nghĩa là xâm loạn, vào thời viễn cổ tộc Hạ và Man Di ngoại tộc tạp cư, do vậy Man Di loạn Hạ, "khấu tặc gian quỹ" không chuyện ác nào không làm.}}, nhữ tác sĩ.'"{{RefTag|name=尧典|1=《[[Kinh Thư|尚书]]•虞书•尧典》.}}}}
Theo biên niên sử truyền thống dựa trên các tính toán của [[Lưu Hâm]], nhà Hạ trị vì từ khoảng năm [[2205 TCN]] tới năm [[1766 TCN]]; theo biên niên sử dựa trên ''[[Trúc thư kỉ niên]]'', khoảng thời gian này là từ khoảng [[1989 TCN]] tới [[1558 TCN]]. [[Hạ Thương Chu đoạn đại công trình]] đưa ra các con số tương ứng là [[2070 TCN]] và [[1600 TCN]]. Mặc dù một số học giả từng tranh cãi về sự tồn tại của triều đại này<ref>{{chú thích sách | last = Beck | first = Roger B. | authorlink = | coauthors = Linda Black, Larry S. Krieger, Phillip C. Naylor, Dahia Ibo Shabaka, | title = World History: Patterns of Interaction | publisher = McDougal Littell | date = 1999 | location = Evanston, IL | pages = | url = | doi = | id = | isbn = 0-395-87274-X }}</ref>, nhưng chứng cứ khảo cổ học lại chỉ ra sự tồn tại của nó. Giới sử gia Trung Quốc coi đây là triều đại đầu tiên của Trung Quốc, sau thời [[Tam Hoàng Ngũ Đế|Tam hoàng Ngũ đế]] và trước thời [[nhà Thương]]. Tuy nhiên, người ta có quyền đặt nghi vấn đối với triều đại này vì trên thực tế, những văn thư đầu tiên của Trung Quốc được viết ra sau triều đại này cả hơn một nghìn năm.
 
== Quốc hiệu ==
Những cuộc khai quật gần đây tại các di chỉ [[thời đại đồ đồng]] sớm tại [[Văn hoá Nhị Lí Đầu|Nhị Lí Đầu]] tại tỉnh [[Hà Nam (Trung Quốc)|Hà Nam]], cũng khó tách biệt truyền thuyết ra khỏi thực tế đối với sự tồn tại của triều đại này. Hầu hết các nhà khảo cổ học Trung Quốc cho rằng văn hoá Nhị Lí Đầu là nơi phát tích của nhà Hạ, tuy vậy các nhà khảo cổ học phương Tây vẫn không đồng ý về mối liên hệ giữa nhà Hạ và văn hoá Nhị Lí Đầu.
Trong lịch sử, triều Hạ được gọi quen là "Hạ" (夏){{RefTag|name=徐俊|1={{Cite book|title=《中国古代王朝和政权名号探源》|pages=第37—43页|publisher=[[华中师范大学]]出版社|author=徐俊|date=2000年11月|location=中国湖北武汉武昌区|isbn=7-5622-2277-0|language=Trung văn giản thể}}}} Liên quan đến nguồn gốc tên gọi "Hạ", trong giới học giả chủ yếu có 10 loại thuyết{{NoteTag|1=<br />① "Hạ" giống như "người Trung Quốc). [[File:夏-说文解字.png|20px|"Thuyết văn giải tự" Thanh•Trần Xương Trị khắc bản chữ “夏”]]) "Hạ, giống người Trung Quốc; từ dáng đi chậm, từ cái đầu, từ cái cối, cái cối hai tay, dáng đi chậm bằng hai chân."{{RefTag|1={{Cite book|title=《说文解字》|author=汉•[[Hứa Thận|許慎]]}}}}<br />② "Hạ" giống với dáng múa. "Hạ, khi múa, cái cối tượng trưng cho dáng tay người múa, dáng đi chậm tượng trưng cho dáng chân người múa."{{RefTag|1=清•徐灏引自宋•戴侗,《说文解字注箋》.}}<br />③ "Hạ" tượng trưng cho Đại Vũ trị thủy. “从臼,手有所持也,从夊,足有所躧也。象农夫之夏日治畦也;夏者,禹有天下之号也。象神禹之八年治水也。”{{RefTag|1={{Cite book|title=《说文疑疑》|author=清•孔廣居}}}}<br />④ "Hạ" tượng trưng cho vật tổ là côn trùng. Trong các [[bốc từ]] Ân Khư có các giáp cốt văn nghi là chữ "Hạ" như ([[File:夏-甲骨虫型0.png|25px|giáp cốt văn thứ nhất nghi là chữ "Hạ"]]), ([[File:夏-甲骨虫型1.png|26px|giáp cốt văn thứ hai nghi là chữ "Hạ"]]), ([[File:夏-oracle.svg|27px|giáp cốt văn thứ ba nghi là chữ "Hạ"]]). Có thuyết nói là tượng trưng cho [[ve sầu]], "đồng thời giống với hình râu đầu và chân cánh, ve sầu là côn trùng mùa hạ, nghe tiếng kêu của nó thì biết là mùa hạ, vì thế mà người hiền trí thời xưa mượn hình con ve sầu để biểu thị.”{{RefTag|name=叶玉森|1={{Cite journal|journal=《学衡》|title=“殷契钩沉•释夏”|author=叶玉森|year=1923年|issue=第24期|language=Trung văn phồn thể}}}}. Tuy nhiên, lại có thuyết cho là giống với thủy trùng, "truyền thuyết dân tộc Hạ, lấy Vũ là tông thần, lấy Ký là đất sinh tức, Vũ Ký cũng tức là đông tây nhất thuộc long xà quy mãnh, do đó cho tộc mình là con cháu của côn trùng, cùng với [[nhà Hán]] tự cho mình là giống rồng, tác dụng toàn đồng. Từ xét đoán qua hệ thống văn tự thì nhất định đó là quái trùng sống trong nước."{{RefTag|1={{Cite book|title=《夏殷民族考》|author=姜亮夫|publisher=上海民族月刊社|date=1933年|language=Trung văn phồn thể}}}}<br />⑤ "Hạ" lấy từ tên sông [[Hạ Thủy]]. "Tên gọi Hạ, thực ra là từ Hạ Thủy mà thành... đất đai ở tại vùng Ung Lương, lấy sông làm tộc danh, như người họ Cơ là sinh ở chỗ Cơ Thủy, người họ Khương là sinh ở chỗ Khương Thủy."{{RefTag|1={{Cite news|author=[[章太炎|章炳麟]]|title=《中華民國解》|work=《民报》第十五号|publisher=中国同盟会|location=日本东京|date=1907年7月5日|language=Trung văn phồn thể|quote=夏之為名,實因夏水而得}}}}<br />⑥ "Hạ" có nguồn gốc từ nhà làm bằng đá. Người giữ quan điểm này cho rằng chữ "Hạ" ngày nay có nghĩa khác với chữ "Hạ" thời cổ, chữ "Hạ" có hai cách dùng là "mùa hạ" và "dân tộc Hạ", hiện nay hai nghĩa có cách viết giống nhau, song khi nghiên cứu trong bốc từ và kim văn vào tảo kỳ thượng cổ, có thể thấy sự khác biệt, ứng với hai chữ vào thời kỳ viễn cổ. Chữ "Hạ" có nghĩa là mùa hạ trong giáp cốt bốc từ có hình giống con ve sầu, do ve sầu kêu không ngừng tại [[bình nguyên Hoa Bắc]] trong mùa hè, nghe tiếng ve sầu kêu là biết mùa hè đến. Chữ "Hạ" có nghĩa là dân tộc Hạ ([[File:夏-金文2.png|20px|Chữ "Hạ" trong kim văn]]) trong kim văn, hay hình thể trong triện văn ([[File:夏-篆体.png|25px|"Chữ "Hạ" thể triện]]) giống với phòng ốc. "Chiêu Hồn" của [[Tống Ngọc]] viết "các hữu đột hạ", [[Vương Dật]] giải nghĩa "đột tức là phục ốc, hạ tức là đại ốc, đều được gọi là hạ". [[Thuyết văn giải tự|Thuyết văn]]" nói "Hạ tự, tòng hảm", hạ thanh. Quảng giả, nhân quảng vi ốc, kỳ tự tòng hàm", cũng có "nhân quảng vi ốc, tượng đối lạt cao ốc chi hình", dùng các hang động làm thành nhà rộng, tức nhà đá.{{RefTag|1={{Cite journal|journal=《东方杂志》|title=“说夏”|author=许同莘|volume=卷四二|issue=第15号|language=Trung văn giản thể}}}}<br />⑦ "Hạ" tượng trưng cho ếch nhái. Trong số đồ gốm màu loại hình Bán Sơn, Mã Xưởng khoảng 2500 năm trước, có hoa văn chủ thể là hình ếch nhái đầu tròn, thân thẳng, tư thế hai tay đưa lên, hai chân có tư thế nhảy kiểm ngồi xổm ([[File:马厂蛙纹.png|30px|Hoa văn đồ gốm hình ếch nhái]]), là tiền thân của chữ "Hạ". Sau đó, tại vùng tiếp giáp giữa [[Cam Túc]] và đông bộ [[Thanh Hải (Trung Quốc)|Thanh Hải]] xuất hiện "hoa văn ếch nhái giản hóa" đầu tròn lớn, thân nhỏ, không chân, nhảy chỉ với hai chi trên ([[File:简化蛙纹.png|25px|Oa văn giản hóa]]), được cho là mô tả con của động vật thủy sinh, tiền thân của chữ "tử" trong kim văn ([[File:子-bronze.svg|25px|chữ tử trong kim văn]]).{{RefTag|1={{Cite journal|journal=《内蒙古师范大学学报》|title=“龙凤传说与中华民族的起源”|author=[[陆思贤]]|year=1988年|issue=第4期|language=Trung văn giản thể}}}}{{RefTag|1={{Cite journal|journal=《内蒙古师范大学学报》|title=“甘肃、青海彩陶器上的蛙纹研究”|author=陆思贤|year=1983年|issue=第3期|language=Trung văn giản thể}}}}<br />⑧ "Hạ" chỉ phương tây. Trong [[Tên chữ (người)|biểu tự]] tên người ở thời kỳ thượng cổ, nhièu khi có hiện tượng hai chữ "Hạ" và "Tây" tương phối, như Công tôn Hạ [[nước Trịnh]] có tự là Tử Tây, công tử [[Thiếu Tây]] [[nước Trần]] có tự là Hạ. Do vậy, có nghi ngờ rằng vào thời viễn cổ thì hai chữ "Hạ" và "Tây" đồng nghĩa.{{RefTag|1={{Cite book|title=《說文通訓定聲》|author=清•[[朱骏声]]|publisher=黟县学会|date=1849年|language=Trung văn phồn thể}}}}{{RefTag|name=楊寬|1={{Cite journal|journal=《禹贡》|title=“说夏”|author=[[楊寬]]|volume=卷七|issue=第6、7合期|language=Trung văn giản thể}}}}<br />⑨ Chữ "Hạ" [[huấn độc]] là “Đại”. Dương Quốc Dũng cho rằng so với các dân tộc xung quanh thì tộc Hạ có đông nhân khẩu, kinh tế phát đạt, vũ lực cường thịnh, văn hóa tiên tiến, do vậy được các dân tộc xung quanh gọi là "Hạ tộc" (tức tộc người lớn), vùng đất họ cư trú được gọi là "Hạ địa" (tức vùng đất lớn).{{RefTag|1={{Cite journal|journal=《夏史论丛》|title=“夏族渊源地域考”|author=杨国勇|publisher=中国先秦史学会编、齐鲁书社出版|year=1985年|location=中国山东济南|language=Trung văn giản thể}}}}{{RefTag|1={{Cite journal|journal=《山西大学学报》|title=“黄炎华夏考”|author=杨国勇|year=1992年|issue=第4期|location=中国山西太原小店区|language=Trung văn giản thể}}}}<br />⑩ "Hạ" là vật tổ mang hình tượng loài thú giống hình dạng của người như [[Macaca|mi hầu]]. Chữ "Hạ" trong kim văn ([[File:夏-金文.png|20px|chữ "Hạ" trong kim văn thời Tây Chu]]) giống như hình người, song bên trong bao gồm nét hình dạng của thú, từ dáng đi hay đầu, cũng như chân tay. Vùng đất phát nguyên của tộc Hạ là Mân Sơn vào thời viễn cổ có nhiều khỉ, người Hạ cũng thấy được bản năng tự nhiên của khí giống với người, liền tạo thành hình dạng chúng tạo ra chữ "Hạ" để làm vật tổ,{{RefTag|1={{Cite book|title=《中国古代社会新研》|author=李玄伯|publisher=开明书店|pages=第110页|date=1948年9月|language=Trung văn phồn thể}}}}}}, trong đó quan điểm có độ khả tín cao nhất nhận định rằng "Hạ" là chữ tượng hình tượng trưng cho vật tổ của tộc Hạ.{{NoteTag|1=Hà Quang Nhạc tổng kết các ý kiến bình luận và bác bỏ về các hệ thống thuyết pháp khác nhau ở trên {{RefTag|name=夏源流史}}:<br />① Phe ủng hộ nhận định nhân dân thời viễn cổ hết sức mê tín, bài xích ngoại tộc, việc có cái nhìn thù địch và xem họ là ác ma quái thú khác biệt với nhân loại là điều có lý, lại thêm tiền lệ như [[Cửu Lê|tộc Cửu Lê]] của [[Xi Vưu]] làm chứng; phe phản đối cho rằng nếu nói chữ "Hạ" tượng trưng cho người Trung Quốc, có hai tay hai chân, thì chẳng lẽ số tay chân của người ngoại quốc và người Trung Quốc có khác biệt? "Thuyết văn giải tự" là tác phẩm thời Đông Hán, nhiều chữ trong đó đã có cả nghìn năm lịch sử, khó mà có thể khảo chứng ý nghĩa ban đầu khi chữ đó được tạo thành, giải nghĩa trong tác phẩm có khả năng là theo suy nghĩ chủ quan của người thời Hán. Mặc dù người thời cổ bài xích ngoại tộc, song việc xem họ là các loại thú trong những câu truyện thần thoại truyền thuyết thực ra là do người đời sau phóng đại mà thành.{{RefTag|name=叶玉森}}<br />② Không phải chỉ có người Hạ mới biết múa, cũng không phải là thứ người Trung Quốc đặc biệt giỏi, lý lẽ của thuyết pháp này yếu, khó mà khiến người ta thấy thuyết phục.<br />③ Chữ "Hạ" có hình dạng giống với người, song việc tưởng tượng rằng chữ "cữu" là một công cụ trị thủy thì là điều khiên cưỡng, khó mà khiến người ta tin phục.<br />④ Truyền thuyết liên quan đến việc Cổn và Vũ xuất sinh phần nhiều có tương quan đến ngư long, song các truyền thuyết này chủ yếu là cố sự do người sau thời Lưỡng Hán nghĩ ra để bổ sung cho phần còn thiếu sót trong lịch sử, không có căn cứ lịch sử xã hội học, chỉ đơn thuần là truyền thuyết của hậu thế, khó mà khiến người ta tin. Trong số bốc từ giáp cốt văn không phát hiện được chữ "Hạ" khiến người ta tín phục, không thể khẳng định được chữ có hình dạng giống con ve sầu là chữ "Hạ", nên cũng không thể dùng để luận chứng ý nghĩa của chữ "Hạ". Hơn nữa, giữa thời Thương Chu chỉ phân biệt hai mùa xuân và thu, không có nói gì về hạ đông, vậy người thời Hạ sao mà có thể nghe tiếng ve sầu kêu mà biết hạ đến?<br />⑤ Hạ bắt nguồn từ Hạ Thủy, song Hạ Thủy lấy tên từ đâu, vấn đề tên gọi chưa được giải quyết. <br />⑥ Từ giáp cốt văn trong "bốc từ", không phát hiện được chữ Hạ có hình dạng giống với nhà đá, mà chữ Hạ giống hình ve sầu thì lại khác biệt so với trong kim văn, triện văn.<br />⑦ Việc cho rằng chữ "Hạ" là ếch nhái khó thuyết phục vì hình dạng khác biệt.<br />⑧ Giả sử vào thời viễn cổ hai âm "Hạ" và "Tây" có thể thay thế cho nhau, không rõ giới hạn trong tên người hay tên chữ, chỉ là suy đoán.<br />⑨ Phía phản đối cho rằng những chữ đọc giống nhau thì hình dạng cũng cần giống nhau, song ở đây thực tế là không như vậy; phe ủng hộ cho rằng hai chữ "Hạ" và "Đại" có thời gian hình thành vào thời viễn cổ, chọn dùng cách theo hình tượng để tạo chữ, việc chữ có âm giống song hình khác là khá nhiều.<br />⑩ Bộ tộc viễn cổ lấy vật tổ làm phù hiệu đại diện, phần nhiều sử dụng loài chim thú có tính cách mà bộ tộc sùng bái hoặc gần giống với bộ tộc. Vùng đất phát nguyên của tộc Hạ là Mân Sơn có nhiều khỉ, khỉ có tính cách thông minh giống người, do vậy người Hạ tôn khỉ làm vật tổ, đồng thời khắc thành văn tự.}}{{RefTag|name=夏源流史|1={{Cite book|title=《夏源流史》|author=何光岳|publisher=江西教育出版社|date=1992年8月|language=Trung văn giản thể|isbn=7-5392-1337-X}}}} [[Tư Mã Thiên]] chép chữ "Hạ" (夏) là danh hiệu bộ lạc do 12 thị tộc tổ thành: Tự tính Hạ hậu thị, [[Hữu Hỗ|Hữu Hỗ thị]], Hữu Nam thị,{{NoteTag|1=有男氏, cũng viết là 有南氏.{{RefTag|name=夏源流史}}}} [[Châm Tầm (nước)|Châm Tầm thị]], Đồng Thành thị, Bao thị, Phí thị,{{NoteTag|1=費氏, còn viết là Phất thị (弗氏)}} Kỉ thị, Tăng thị, Tân thị, Minh thị, [[Châm Quán|Châm Quán thị]]{{NoteTag|1=ghi khác là Châm Qua thị (斟戈氏), Châm Quan thị (斟觀氏).}} Vua Hạ là thủ lĩnh của bộ lạc, do vậy sau khi kiến lập triều Hạ, lấy tên bộ lạc làm quốc hiệu.{{RefTag|name=夏本纪}} [[Trương Thủ Tiết]] thời [[nhà Đường|Đường]] thì nhận định "Hạ" là do Đại Vũ thụ phong tại Dương Trạch làm "Hạ Bá", sau lấy làm tên. Lại có thuyết nói "Hạ" bắt nguồn từ địa danh "Hữu Hạ chi cư", "Đại Hạ" diễn biến thành tên bộ lạc, rồi trở thành quốc hiệu.{{RefTag|name=徐俊}}
 
== ThànhLịch lậpsử ==
=== Khởi nguyên ===
{{Chính|Hạ Vũ}}
Theo ghi chép trong văn hiến Trung Quốc cổ đại, trước khi Hạ hậu thị kiến lập, xuất hiện chiến tranh thường xuyên giữa bộ tộc Hạ và các bộ tộc khác xung quanh để tranh đoạt địa vị thủ lĩnh liên minh. Trong truyền thuyết cổ sử Trung Quốc, bộ tộc Hạ dần dần hưng khởi từ thời [[Chuyên Húc]] về sau. Có không ít văn hiến cổ đại truy nguyên Hạ tộc đến Chuyên Húc.{{NoteTag|1=Chuyên Húc là con của [[Xương Ý]]. Xương Ý lại là con của [[Hoàng Đế]]}} Trong "[[Sử ký Tư Mã Thiên|Sử ký]]-Hạ bản kỉ" và "[[kinh Lễ|Đại đái lễ ký]]-Đế hệ", nói rằng [[Cổn]] là con của Chuyên Húc. Tuy nhiên, cũng có một số văn hiến thì nói rằng Cổn là cháu năm đời của Chuyên Húc.{{NoteTag|name=颛顼五世孙|1=Có thuyết nói Cổn là cháu năm đời của Chuyên Húc. [[Hoàng Phủ Mật]] soạn "[[Đế vương thế kỷ]]" cùng với "[[Thế bản|Thế bản-Đế hệ]]" đều nhận định rằng Cổn là con của Chuyên Húc, song "[[Hán thư]]-Luật lịch chí" chép rằng "Đế hệ Chuyên Húc ngũ đại nhi sinh Cổn", "[[Sử ký sách ẩn]]" của [[Tư Mã Trinh]] nhận định rằng thuyết pháp của Hán thư khá khả tín.{{RefTag|1={{Cite book|title=《帝王世紀》|author=皇甫谧|language=Trung văn phồn thể}}}}{{RefTag|1={{Cite book|title=《世本•帝系》|author=sử quan [[Tiên Tần]] soạn viết|language=Trung văn phồn thể}}}}{{RefTag|1={{Cite book|title=《史記索隱》|author=司马贞|language=Trung văn phồn thể}}}}}} Các văn hiến này cho thấy rằng Hạ tộc rất có khả năng là một chi hậu duệ của Chuyên Húc. Có thuyết cho rằng Hạ tộc khởi nguyên tại khu vực dãy núi [[Mân Sơn]] trên thượng du [[sông Dân|Mân giang]] thuộc nơi giao giới giữa ba tỉnh [[Tứ Xuyên]]-[[Cam Túc]]-[[Thanh Hải (Trung Quốc)|Thanh Hải]] hiện nay. Sau đó, họ dần theo thượng du [[Hán Thủy]] cổ, qua trung hạ du [[sông Vị|Vị Thủy]], dời về phía đông đến lưu vực [[Sông Y|Y]]-[[sông Lạc (Nam)|Lạc]] tại nam bộ [[Sơn Tây (Trung Quốc)|Sơn Tây]]-tây bộ [[Hà Nam (Trung Quốc)|Hà Nam]].{{RefTag|name=夏源流史}}
Truyền thuyết nói rằng [[hạ Vũ|vua Vũ]] là người hiền, có công đào vét chín con sông trị thủy cho Trung Quốc trong tám năm. Trong thời gian đào vét, ông nhiều lần đi ngang qua nhà mình mà không vào. Vì công lao như vậy, năm 2263 TCN ông được [[thuấn|vua Thuấn]] chọn làm người truyền ngôi.
 
=== Cổn-Vũ trị thủy ===
Năm 2246, vua Thuấn mất, Vũ để tang 3 năm rồi chính thức lên ngôi vua năm 2243 TCN. Sau khi lên ngôi, ông vẫn giữ lệ cử người hiền tài trong nước thay mình như các đời trước mà không có ý định truyền ngôi cho con là Khải - con với người vợ họ Đồ Sơn. Ông dự định cử Cao Dao thay mình làm vua sau này. Nhưng Cao Dao lại mất trước ông, vì vậy ông phong cho con cháu Cao Dao ở đất Anh, đất Lục, rồi lại tiến cử Bá Ích quản lý chính sự để chuẩn bị làm vua.
Thành viên Hạ tộc đầu tiên được văn hiến ghi chép là Cổn. Trong "[[Quốc ngữ (sách)|Quốc ngữ]]-Chu ngữ" có ghi rằng Cổn là thủ lĩnh của Hạ tộc, được phong tại Tung{{NoteTag|name=崇|1={{Tiêu âm|繁=崇|简=崇|拼音=Sōng|注音=ㄙㄨㄥ|同音字=嵩}}{{RefTag|1={{Cite book|title=《汉语大字典》|author=汉语大字典编辑委员会|publisher=四川辞书出版社,湖北辞书出版社|date=1986年10月—1990年10月|language=Trung văn phồn thể}}}}, viết khác là Tung Sơn (崇山), Hữu Tung (有崇).{{RefTag|name=王玉哲}}}}, cho nên được gọi là "Tung bá Cổn". Sau này, Vũ kế thừa Cổn làm "Tung bá Vũ". Điều này thể hiện rằng Hạ tộc hoạt động ở phụ cận [[Tung Sơn]]{{NoteTag|1=Tung Sơn (嵩山) có tên cổ là “崇山”, cũng gọi là “嵩高”、“崇高”、“狄山”、“崧山”、“嵩高山”、“崇高山”.{{RefTag|1={{Cite book|title=《炎黄源流史》|author=何光岳|publisher=江西教育出版社|date=1992年4月|language=Trung văn giản thể|isbn=7-5392-1157-1}}}}}}.{{RefTag|name=大百科|1={{Cite encyclopedia|author=安金槐|title=夏|encyclopedia=[[中国大百科全书]]|publisher=中国大百科全书出版社|year=1978年—1993年|language=Trung văn giản thể}}}} Đương thời, nước sông gây lụt, có không ít các bộ lạc hình thành liên minh bộ lạc nhằm chống lại nước lụt, Cổn được [[Tứ Nhạc]] cử làm lãnh đạo trị thủy, trải qua chín năm song cuối cùng thất bại. Nguyên nhân trị thủy thất bại có khả năng là do ông không giỏi trong việc đoàn kết tộc nhận cùng các bộ lạc khác. "[[Kinh Thư|Thượng thư]]-Ngiêu Điển" chép rằng [[Nghiêu]] ngay từ đầu tiên đã nhận định rằng Cổn trái mệnh hại tộc, hủy hại người thiện lương nên phản đối Cổn lãnh đạo trị thủy{{RefTag|name=尧典}}, điều này thể hiện rằng trong thời gian Cổn lãnh đạo trị thủy có không ít bộ lạc bất mãn đối với ông. Trong "Thượng thư-Hồng phạm" và "Quốc ngữ-Lỗ ngữ" lại đề cập thêm rằng "Cổn chướng hồng thủy", cho thấy phương pháp trị thủy của Cổn chủ yếu là dùng đất, gỗ ngăn trở để chặn nước lụt, có thể đây cũng là một nguyên nhân của việc Cổn trị thủy chín năm thất bại.{{RefTag|1=《尚书•洪范》、《国语•鲁语》.}} Sau khi trị thủy thất bại, Cổn bị giết tại Vũ Sơn nằm ven biển [[Hoàng Hải]].{{NoteTag|1=có thuyết nói rằng bị lưu đày ở Vũ Sơn, không lâu sau thì mất.{{RefTag|name=夏源流史}}}}
 
[[File:大禹治水圖.png|thumb|180px|left|Tranh mô tả Đại Vũ trị thủy, tay cầm cày<br />(bản khắc đá thời Đông Hán Vũ Lương từ tại huyện [[Gia Tường]], Sơn Đông</center>]]
Năm 2198 TCN, Vũ đi tuần phía đông, đến Cối Kê thì mất. Bá Ích không nhận ngôi vua mà nhường lại cho con Vũ là Khải rồi tránh ra ở phía nam Cơ Sơn. Vì Khải cũng có nhiều uy tín nên thiên hạ nhiều người quy phục. Kể từ đời [[hạ Khải|vua Khải]], nhà Hạ giữ lệ cha truyền con nối.
 
Vũ là con của Cổn, sau khi Cổn mất, Vũ thụ mệnh của Thuấn làm công tác trị thủy. Vũ cải tiến phương pháp trị thủy của phụ thân, nạo vét dòng sông, đoàn kết tộc nhân các bộ lạc, cuối cùng chế ngự được nước lụt. "Sử ký-Hạ bản kỉ" có chép rằng khi Vũ trị thủy "lao thân tiêu tư, 13 năm sống ở ngoài, qua cửa nhà không dám vào", tinh thần khắc khổ này được hậu thế truyền tụng, trong quá trình trị thủy có khả năng cũng đã xúc tiến đoàn kết giữa tộc nhân các bộ lạc. "[[Mạnh Tử (sách)|Mạnh tử]]-Đằng Văn công" đề cập đến phương pháp trị thủy của Vũ: "khai thông chín sông, đào thông [[sông Tể|Tể]], Tháp ra [[Hoàng Hải|Chư Hải]], khơi [[sông Nhữ|Nhữ]], [[Hán Thủy|Hán]]; tháo nước [[sông Hoài|Hoài]], [[Tứ Thủy (sông)|Tứ]] vào [[Trường Giang|Giang]]{{RefTag|name=滕文公上}}" Vũ cũng đề xướng nông nghiệp, nhấn mạnh "tự thân trồng trọt mà có thiên hạ{{RefTag|name=宪问|1=《论语•宪问》.}}". [[Hàn Phi Tử (sách)|Hàn Phi Tử]]-Ngũ đố" khen ngợi Vũ "thân cầm cày xẻng mà lãnh đạo dân, đùi và cẳng chân không mọc được lông, nhọc nhằn của nô lệ cũng không bằng của ông"{{RefTag|1=《[[韩非子]]•五蠹第四十九》.}}.
== Loạn Hậu Nghệ, Hàn Trác ==
{{Chính|Hậu Nghệ|Hàn Trác}}
 
Do Vũ có công trị thủy và xúc tiến sản xuất nông nghiệp, thế lực của bộ tộc Hạ tăng cường. Sau đó, [[Thuấn]] cũng phái Vũ đi thảo phạt [[Tam Miêu]]. Vũ nhiều lần đánh bại Tam Miêu, xua đuổi Tam Miêu đến lưu vực [[Đan Giang]] và [[Hán Thủy]], củng cố quyền vua. Trong "[[Mặc Tử (sách)|Mặc Tử]]-Phi công" có viết về việc sau khi Vũ thắng Tam Miêu "biệt vật thượng hạ, khanh chế đại cực, nhi thần dân bất vi, thiên hạ nãi tĩnh", qua đó có thể thấy rằng sau khi Vũ trị thủy và thắng lợi trước Tam Miêu, bộ tộc Hạ trở thành thủ lĩnh liên minh bộ tộc. Thuấn đem đế vị [[thiện nhượng]] cho Vũ, Vũ tại Đồ Sơn{{NoteTag|name=涂山|1=Về vị trí của Đồ Sơn, có bốn thuyết{{RefTag|1={{Cite journal|title=“涂山再考”|author=梁刚|journal=《唐都学刊》|publisher=西安文理学院|location=中国陕西西安|year=2001年|month=10月|volume=卷十七(专辑二)|pages=第171—173页|language=Trung văn giản thể}}}}, theo tương truyền tức là Đồ Sơn trong địa phận huyện [[Hoài Viễn]] thuộc tỉnh An Huy hiện nay{{RefTag|1=《左传•哀公七年》杜预注文、《汉书•地理志》、《帝王 TCN》、《地理通释•十道山川考》、《大清一统志》.}}, một thuyết khác nói rằng là Tam Đồ Sơn thuộc địa phận huyện [[Tung]] thuộc tỉnh Hà Nam hiện nay{{RefTag|1=《逸周书•度邑》、《读史方舆纪要》、《[[水经注]]•卷十五•伊水》.}}{{RefTag|name=中国交通史|1={{Cite book|title=《中国交通史》|author=[[白寿彝]]|publisher=上海书店|year=1937年|pages=第4—5页|language=Trung văn phồn thể}}}}, thuyết thứ ba thì nói rằng là Dư Sơn ở phía bắc khu [[Tiêu Sơn, Hàng Châu|Tiêu Sơn]] của [[Hàng Châu]], [[Chiết Giang]]{{RefTag|1=《越绝书外传记•越地传》、《[[吳越春秋]]》.}}{{RefTag|name=朱元桂|1={{Cite journal|title=“会稽涂山考”|author=朱元桂|journal=《浙江学刊》|publisher=浙江省社会科学院|location=中国浙江杭州|year=1995年|issue=第4期、总第93期|pages=第33—35页|language=Trung văn giản thể}}}}, thuyết thứ 4 thì cho là Đồ Sơn trong địa phận [[Trùng Khánh]].{{RefTag|1=《[[华阳国志]]•巴志》、《续后汉书•郡国志》刘昭注文、《水经注•卷三十三•江水》.}}}} triệu tập hội minh bộ lạc, một lần nữa chinh thảo Tam Miêu.{{NoteTag|1=Đương thời, các bộ lạc tại Trung Nguyên và Tam Miêu đấu tranh liên miên.}} Trong [[Tả truyện]] có chép "người vạn quốc đem theo ngọc lụa" tham gia Đồ Sơn hội minh.{{RefTag|1=《左传•哀公七年》.}}, có thể thấy khả năng hiệu triệu của bộ lạc Hạ{{RefTag|name=晁福林}}. Có một lần tại Cối Kê{{NoteTag|1={{Tiêu âm|繁=會稽|简=会稽|拼音=Kuàijī|注音=ㄎㄨㄞˋ ㄐㄧ|同音字=快机}}, một thuyết dựa theo âm đọc tiếng Ngô bản địa mà cho là Khoái Cơ {{Tiêu âm|拼音=Guìjī|注音=ㄍㄨㄟˋ ㄐㄧ|同音字=桂机}}, có ý là "tập hợp".}}{{NoteTag|1=Tương truyền nay là phụ cận [[Thiệu Hưng]] thuộc tỉnh [[Chiết Giang]].{{RefTag|name=朱元桂}}}} tổ chức hội minh bộ lạc, thủ lĩnh [[Phòng Phong|Phòng Phong thị]] đến muộn nên bị Vũ xử tử. Trong văn hiến cổ còn viết về việc Vũ căn cứ vào đường đi xa gần của các bộ lạc chư hầu mà phân biệt nạp cống nhiều hay ít, có thể thấy bộ tộc Hạ khống chế về mặt kinh tế của các bộ lạc xung quanh. Vũ từng tiến cử thủ lĩnh họ Yển là [[Cao Dao]] có thanh thế ở phía đông làm người kế thừa, thể hiện tôn trọng truyền thống thiện nhượng.{{RefTag|name=大百科}} Tuy nhiên, chưa đến khi thiện nhượng thì Cao Dao lại mất trước Vũ. Vũ lại mệnh thủ lĩnh [[Đông Di]] là [[Bá Ích|Ích]]{{NoteTag|1=còn viết là “伯益”, Đại Phí “大费”, Bá Ế “伯翳”, Bách Ế “柏翳”. Có thuyết nói là con của Cao Dao.}} làm người kế thừa, tuy nhiên có rất nhiều bộ lạc không ủng hộ việc này, ngược lại họ ủng hộ con của Vũ là [[Hạ Khải|Khải]]. {{NoteTag|1=Không theo Ích mà theo Khải (不归益而归启.){{RefTag|1=《孟子•万章》.}}}}
=== Hậu Nghệ cướp ngôi ===
Năm 2188 TCN, vua Khải mất, con là [[Thái Khang]] lên thay. Thái Khang ham chơi bời, thích săn bắn, không quan tâm việc chính sự. Bầy tôi của Thái Khang là [[Hậu Nghệ]] - vua nước chư hầu Hữu Cùng - thấy Thái Khang bỏ triều chính nên nảy sinh ý định giành ngôi.
 
=== Gia thiên hạ ===
Một hôm Thái Khang rời kinh đô đi săn ở đất Lạc. Hậu Nghệ bí mật điều quân từ nước Hữu Cùng sang tập kích kinh đô nhà Hạ, chiếm được kinh thành. Sau đó Nghệ mang quân ra chặn bờ sông, phong toả lối về của Thái Khang. Thái Khang mang quân trở về bị quân Hữu Cùng chặn đánh, phải bỏ chạy sang nước chư hầu. Thái Khang định tập hợp chư hầu đánh Hậu Nghệ, nhưng các chư hầu đều không phục Thái Khang, vì vậy Thái Khang phải lưu vong ở nước ngoài cho đến hết đời.
[[File:夏王启.png|thumb|180px|right|<center>[[Hạ Khải|Hạ vương Khải]]</center>]]
 
Sau khi Vũ mất, Ích không có được quyền vị, ngược lại Khải được dân chúng ủng hộ nên đoạt được quyền vị. Ghi chép về giai đoạn lịch sử này không giống nhau. Theo [[Trúc thư kỉ niên]] cổ bản, sau khi Ích tức vị, Khải giết Ích mà đoạt lấy quân vị.{{NoteTag|1=Ích vu Khải vị, Khải sát chi (益于启位,启杀之.){{RefTag|1=《晋书•束皙传》dẫn từ《竹書紀年》.}}}} Lại có thuyết nói sau khi Ích kế vị, có một số bộ tộc không thần phục Ích mà lại ủng hộ Khải, họ triển khai chiến tranh với bộ tộc của Ích, cuối cùng Khải thắng và đoạt được quyền vị. Sau đó, Ích suất lĩnh liên minh Đông Di thảo phạt Khải. Trải qua mấy năm đấu tranh, Khải xác lập địa vị thủ lĩnh trong liên minh bộ tộc.{{NoteTag|1=Khải dữ hữu đảng công Ích nhi đoạt thiên hạ (“启与友党攻益而夺之天下。”){{RefTag|1=《韩非子•外储说右下》.}}}} Văn hiến [[Tiên Tần]] ghi chép về sự việc này cùng cho là "công thiên hạ" biến thành "gia thiên hạ", tức thiên hạ là của chung biến thành thiên hạ của một nhà, khu vực Trung Nguyên từ đây xuất hiện khái niệm "quốc gia"{{NoteTag|1=tức "gia quốc", nghĩa là thiên hạ nằm trong quyền sở hữu của một nhà.}}.{{RefTag|name=王玉哲|1={{Cite book|title=《[[中国断代史系列]]—中华远古史》|author=[[王玉哲]]|publisher=[[上海人民出版社]]|date=2000年7月|isbn=7-208-03283-1|language=Trung văn giản thể}}}} Không ít học gia lịch sử nhận định đây là khởi thủy của triều Hạ-vương triều thế tập đầu tiên của Trung Quốc.{{RefTag|name=晁福林}} Sau đó, không ít bộ tộc theo khuynh hướng thiện nhượng truyền thống nghi vấn về quyền vị của Khải. [[Hữu Hỗ|Hữu Hỗ thị]] vốn ở vùng ngoài kinh đô của Khải,{{NoteTag|name=有扈氏与甘|1=Không rõ vị trí của Hữu Hỗ thị và "Cam", việc này từ cổ không được nói rõ ràng. Quan điểm truyền thống cho rằng đất Hỗ tại khu vực bình nguyên [[Quan Trung]] của tỉnh Thiểm Tây ngày nay, thậm chí còn đề xuất cụ thể hơn là [[Hộ (huyện)|huyện Hộ]]{{NoteTag|1=户县, tên cũ là “鄠县”.{{NoteTag|1={{Tiêu âm|繁=鄠|简=鄠|拼音=Hù|注音=ㄏㄨˋ|同音字=户}}。}}}} của Tây An ngày nay, đồng thời nói "Cam" nằm tại Nam Giao tại đó{{RefTag|name=史记地名考}}. Trong "Tả truyện", "Hỗ" (扈) và "Cố" (雇) có thể dùng thay cho nhau, "Cố" thấy trong giáp cốt bốc từ [[Ân Khư]] thời vãn Thương tại [[An Dương (địa cấp thị)|An Dương]] của Hà Nam, nằm không xa bằng Thiểm Tây, với kinh đô của Khải là Dương Trạch (tương truyền nay thuộc [[Vũ Châu]], Hứa Xương) thì có cự ly vừa phải. [[Trận Cam|Trận chiến Cam]] diễn ra ngay lúc triều Hạ mới kiến lập, cả Hữu Hỗ thị và Hạ quân Khải đều chưa chuẩn bị đẩy đủ điều kiện cho việc tác chiến xa như vậy. Quan điểm khá thích hợp hiện nay cho rằng hai xứ "Hỗ" và "Cam" nằm ở xa kinh đô của Khải, Hỗ/Cố nằm tại khu vực [[Nguyên Dương, Tân Hương|Nguyên Dương]], [[Tân Hương]] ngày nay, còn "Cam" nằm tại tây nam [[Lạc Dương]] hiện nay.{{RefTag|1={{Cite journal|journal=《中国史研究》|title=《尚书•甘誓》校释译论|author=顾颉刚、刘起釪|year=1979年|issue=第1期|language=Trung văn giản thể}}}}}} trượng nghĩa khởi binh,{{NoteTag|1=Ghi chép sớm nhất đề cập đến chiến đấu giữa Hữu Hỗ thị và Hạ hậu thị thấy trong "Thượng thư-Cam thệ", tuy nhiên nội dung không chỉ rõ "Hạ vương" là vị nào. Trong các văn hiến sau này, nội dung trình bày bất nhất, hoặc là Vũ{{RefTag|1=《墨子•明鬼下》、《庄子•人世间》、《吕氏春秋•召类》、《说苑•政理》.}} hoặc là Khải{{RefTag|1=《逸周书•史记》、《尚书•书序》.}} Có khả năng cổ nhân viết nét chữ của "Cam thệ" và "Vũ thệ" giống nhau, hoặc có khả năng hai đời Vũ và Khải đều từng chinh thảo qua Hữu Hỗ thị.{{RefTag|name=中国法制通史|1={{Cite book|title=《中国法制通史•夏商周》|volume=卷一|author=蒲坚|publisher=法律出版社|date=1999年1月|language=Trung văn giản thể|isbn=7-5036-2373-X}}}}}} suất lĩnh liên minh bộ tộc hướng đến thảo phạt kinh đô của Khải, cùng quân của Khải đại chiến tại Cam{{NoteTag|name=有扈氏与甘}} Trước khi chiến, Khải tuyên bố quyền vị của ông là "cung hành thiên", tức là theo ý trời. Điều này trở thành nguyên mẫu của [[thiên tử|thiên tử luận]] của triều Chu sau này. Khải nhận được sự tán đồng của dân chúng Trung Nguyên, do vậy chiếm tuyệt đại ưu thế về phương diện số người, cuối cùng đánh bại Hữu Hỗ thị, trừng phạt bằng cách giáng họ làm mục nô.{{NoteTag|1=“mục thụ”, nô lệ chăn nuôi gia súc.}}{{NoteTag|1=Hữu Hỗ mục thụ, vân hà nhi phùng (“有扈牧竖,云何而逢?”){{RefTag|name=天问|1={{Cite book|title=《楚辞•天问》|author=屈原}}}}} Đây là thắng lợi thứ hai đại diện cho việc quan niệm xã hội chủ lưu của khu vực Trung Nguyên đi từ chế độ thiện nhượng nguyên thủy chuyển hướng sang chế độ thế tập.{{RefTag|name=王玉哲}}
Năm 2160 TCN, Thái Khang chết ở nước ngoài, em là [[Trọng Khang]] nối ngôi. Năm 2147 TCN, Trọng Khang chết, con là [[Tướng (vua nhà Hạ)|Tướng]] nối ngôi. Tướng ở nhờ trên đất nước chư hầu là Châm Tầm. Vua Châm Tầm ủng hộ Hạ Tướng khôi phục ngôi báu.
 
Thị tộc Hạ có nguyên mang họ (tính) Tự, song từ thời Khải trở đi chuyển sang dùng quốc danh "Hạ" làm họ. Đồng thời, Khải không tiếp tục sử dụng xưng hiệu "bá" mà đổi sang dùng "hậu", tức "Hạ hậu Khải".{{NoteTag|1=Trong văn hiến thời kỳ từ Thượng Cổ đến [[nhà Tần|Tần]]-[[nhà Hán|Hán]], khi truy thuật về quân chủ Hạ-Thương thì thường gọi là "hậu". Để gọi thay cho "Hạ hậu thị", hiện có "Hạ triều", và ít thấy hơn là "Hữu Hạ thị"{{NoteTag|1=tức "Hạ thị". Thời kỳ Thượng Cổ, nhân danh, thị danh, tính danh, hay tộc danh phần nhiều là từ đơn, nhưng hậu nhân đổi sang tập quán tên hai từ, do vậy phía trước thêm chữ "Hữu" làm trợ từ, chữ "Hữu" hoàn toàn không có ý nghĩa thực tế.{{RefTag|name=古代汉语词典|1={{Cite book|title=《古代汉语词典》|author=《古代汉语词典》编写组|publisher=[[商务印书馆]]|date=2003年10月|isbn=7-100-01549-9|language=Trung văn giản thể}}}}}} Đây là những tôn hiệu thị tộc cải biến theo hướng tăng trung tính{{NoteTag|1=Ngoài ra, người thời Chu sùng thượng triều Hạ, cho rằng có duyên với Hạ, tự xưng "Hữu Hạ", hoàn toàn không phải là gọi vua Hạ.}}. [[Dương Khoan]] nhận định hai chữ "Hạ hậu" trong "Hạ hậu thị" thực tế là một liên từ, do vậy không thể xuất hiện tình huống "Hữu Hạ thị" này. Cũng do vào thời Thượng Cổ, chữ "Hạ" và chữ "Hạ" (下, nghĩa là dưới) đồng âm{{NoteTag|1=hai chữ “夏” trong tiếng Hán thượng cổ "Hồ nhã thiết, cổ âm tại ngũ bộ"{{RefTag|1={{Cite book|title=《[[说文解字注]]》|author=清•[[段玉裁]]|year=1815年|language=Trung văn phồn thể}}}}, ước đoán đọc là *{{IPA|ha}}.{{RefTag|name=楊寬}}}}, có hoài nghi rằng "夏后" và "下后" tương đồng, "Hạ hậu" dưới mặt đất đối ứng với "Thượng đế" trên trời{{RefTag|name=楊寬}}. Trong bốc từ giáp cốt văn, chữ "hậu"([[File:后.png|25px|后]])là ngoa khắc của chữ "cư/居" ([[File:居2.png|20px]]){{NoteTag|1="Cư" thời Thượng Cổ có hai chữ: ([[File:居2.png|20px]]) hàm nghĩa là vỗ về nuôi nấng, sinh sản, đồng nghĩa với "dục" (毓). thời Trung Cổ nghĩa là nuôi dưỡng, để dành (như trong 《汉书•张汤传》:“居物致富”); ([[File:居.png|15px|]]) hãm nghĩ là ngồi, cư trú, dừng lại, chiếm hữu, ý nghĩa giống như hiện nay.{{RefTag|name=王玉哲}}}}, chữ "cư" lại là giản hóa của chữ "dục/毓" ([[File:毓.png|20px]]), "dục" bao hàm nghĩa sinh sản nuôi dưỡng, dùng cách xưng hô "hậu" đối với quân chủ là dấu tích còn lại của xã hội mẫu hệ thời viễn cổ. Kỳ thực, do đến nay vẫn chưa phát hiện được văn tự của người triều Hạ, các xưng hô thực tế đối với quân chủ Hạ tộc tạm vẫn không có cách nào khảo chứng.{{RefTag|name=王玉哲}}}}{{RefTag|1={{Cite book|title=《诗地理考》|author=王應麟}}}} Khải có tài ca hát, giỏi múa, thường cử hành thịnh yến. Trong đó, một lần lớn nhất là tại Quân Đài{{NoteTag|1=còn viết khác là "Hạ đài", "đại đài".}}{{NoteTag|name=古钧台|1=tương truyền nay thuộc phía nam [[Vũ Châu]] của Hà Nam{{RefTag|name=史记地名考|1={{Cite book|title=《史记地名考》|author=[[錢穆]]|publisher=商务印书馆|date=2001年7月|isbn=7-100-03240-7|language=Trung văn phồn thể}}}}}} ấy là Quân Đài chi hưởng, còn tại "Thiên Mục chi dã"{{NoteTag|1=Không rõ vị trí cụ thể hiện nay.}} biểu diễn ca vũ. "[[Sơn Hải kinh]]-Hải ngoại tây kinh" chép rằng Khải khi múa "tay trái giữ ế{{NoteTag|1=Cái lọng xe của vua kết từ lông vũ.}}, tay phải cầm vòng, đeo ngọc hoàng{{NoteTag|1=đồ trang sức hình nửa tròn làm từ ngọc.}}".{{RefTag|1=《[[山海经]]•海外西经》.}} Văn hiến nhạc vũ cổ xưa của Trung Quốc như "Cửu biện", "Cửu ca" và "Cửu thiều"{{NoteTag|1=viết là 九招 hay 九韶.}} đều nhận Khải là tác giả gốc. Trong thời gian Khải thống trị, con là Vũ Quan{{NoteTag|1="[[Mặc Tử (sách)|Mặc Tử]]" viết rằng "Vũ Quan" nghi là tên sách, không phải tên người. "Sử ký-Hạ bản kỉ" chép rằng Khải có "ngũ tử", thời [[Thái Khang]] mất nước tại bờ bắc Lạc Hà họ theo trưởng huynh Thái Khang, sáng tác "Ngũ tử chi ca" để biểu thị chí hối cải. Người thời Hán lại đặt cho "Ngũ tử" hiệu "Ngũ Quan"{{NoteTag|1=“昆弟五人号五观。”{{RefTag|《汉书•古今人表》.}}}}, nghi là kết quả của việc hậu nhân lấy liên hệ giữa "Vũ Quan" với "Ngũ Quan", "Ngũ tử" trong "Mặc Tử".{{RefTag|1={{Cite book|title=《古文尚書撰異》|author=清•段玉裁|volume=卷七|language=Trung văn phồn thể}}}}}} thường làm loạn. "[[Hàn Phi Tử]]-Thuyết nghi" chép rằng người này "hại nước hại dân bại pháp", cuối cùng bị giết.{{RefTag|1=《[[韩非子]]•说疑》.}}
=== Hàn Trác cướp ngôi Hậu Nghệ ===
Hậu Nghệ cướp được ngôi nhà Hạ lại tỏ ra kiêu ngạo, bỏ chính sự như Thái Khang trước kia. Hậu Nghệ cũng ham mê săn bắn, chơi gái và thích uống rượu. Một hôm mê chơi gái nên bị bầy tôi của Hậu Nghệ là [[Hàn Trác]] thấy Hậu Nghệ như vậy bề ngoài ra sức tán tụng nhưng bên trong toan tính giành ngôi. Hậu Nghệ tin tưởng Hàn Trác, giao cho Trạc toàn bộ việc triều chính để hưởng lạc. Năm 2120 TCN, Hậu Nghệ đi săn, Hàn Trác đi theo. Trác mang rượu dâng lên Hậu Nghệ. Nghệ uống rượu say bất tỉnh, Hàn Trác thừa cơ giết chết cướp ngôi.
 
=== Thái Khang thất quốc ===
Năm 2119 TCN, Hàn Trác nghe tin Hạ Tướng chuẩn bị binh lực ở nước Châm Tầm, bèn sai hai con là Kiêu và Ế mang quân đánh Châm Tầm. Quân Hàn Trác tiến đến Châm Tầm, giết chết Hạ Tướng và tiêu diệt nước này. Vợ Hạ Tướng là Hậu Mân đang có mang, chui qua lỗ tường trốn thoát và sinh ra [[Thiếu Khang]].
Sau khi Hạ Khải mất, con là [[Thái Khang]] kế thừa hậu vị, Thái Khang chỉ để tâm vào du ngoạn, không lo chính sự.{{RefTag|1=裴骃,《史记集解》.}} Trong thời gian Thái Khang tại vị, quyền uy của bộ tộc Hạ suy yếu, các bộ lạc Đông Di là [[Thái Hạo]] và [[Thiếu Hạo]] thừa cơ tây tiến. Thủ lĩnh [[Hậu Nghệ|Nghệ]]{{NoteTag|1={{Tiêu âm|繁=羿|简=羿|拼音=Yì|注音=ㄧˋ|同音字=易}}。}}{{NoteTag|name=后羿|1=nhân danh là "Nghệ", tôn xưng là "Hậu Nghệ", chữ "Hậu" này đối xứng với "Hậu" trong "Hạ hậu", là xưng hiệu tôn quý của thủ lĩnh liên minh bộ lạc. Khác với Hậu Nghệ trong thần thoại thời kỳ Đường [[Nghiêu]]}} của tộc Đông Di là người giỏi bắn cung, ông suất quân từ đất Từ{{NoteTag|name=鉏|1={{Tiêu âm|繁=鉏|简=[[File:鉏.png|15px|钅且]]|拼音=Xú|注音=ㄒㄩˊ|同音字 =徐}} của Đông Di dời đến đất Cùng Thạch{{NoteTag|1=tương truyền nay ở phía nam của [[Lạc Dương]], Hà Nam.}} của Hạ hậu thị, thông hôn với người Hạ bản địa, hình thành nên [[Hữu Cùng|Hữu Cùng thị]]{{NoteTag|1=còn viết là Hữu Khung.}} Dưới sự ủng hộ của dân Hạ, Nghệ đoạt lấy Hạ chính,{{NoteTag|1=“因夏民以代夏政。”{{RefTag|name=襄公四年}}}} Thái Khang sau đó chạy đến [[Châm Tầm (đô thành)|Châm Tầm]]{{NoteTag|name=斟鄩|1={{Tiêu âm|繁=斟鄩|简=斟[[File:鄩.png|15px|寻阝]]、斟寻|拼音=Zhēnxún|注音=ㄓㄣ ㄒㄩㄣˊ|同音字 =真寻}}。}} thuộc [[Châm Tầm (nước)|Châm Tầm thị]].
 
Sau khi Nghệ đoạt được quyền vị, ông không xưng vương mà lập em của Thái Khang là [[Trung Khang]] làm vương, song quốc sự trên thực tế đều do Nghệ trị lý. Việc này khiến cho không ít bộ lạc bất mãn, trong đó Hòa thị và Hi thị công khai phản đối, họ đồng thời cũng có nhiệm vụ chủ trì hoạt động quan sát các hiện tượng thiên nhiên. Nghệ nói họ phế thời loạn nhật, phái Dận{{NoteTag|1=còn viết là "Dận hầu"}} suất binh thảo phạt hai thị tộc Hi và Hòa, trước khi chiến cử hành lời thệ sư "Dận chinh"{{NoteTag|1=còn lại trong "Thượng thư-Hạ thư-Dận chinh", nguyên văn đã thất truyền.}}, giành chiến thắng trong trận chiến.{{RefTag|name=夏本纪|1={{Cite book|title=《史记•夏本纪》|author=司馬遷}}}}}}。
Hàn Trác phong cho hai con là Kiêu làm vua [[chư hầu]] đất Quá<ref>[[Sơn Đông]]</ref> và Ế làm vua chư hầu đất Qua<ref>[[Hà Nam (Trung Quốc)|Hà Nam, Trung Quốc]]</ref>.
 
Sau khi Trung Khang mất, con là [[Tướng (vua nhà Hạ)|Tướng]] kế vị. Sau đó, Tướng chạy trốn hướng về hai thị tộc [[Châm Tầm (nước)|Châm Tầm]]{{NoteTag|name=斟鄩}}, [[Châm Quán]]{{NoteTag|1=gọi chung là "nhị Châm".}} Từ đó, Nghệ một mình đảm đương vương vị. Nghệ giỏi săn bắn, không thạo trị lý, sau khi đoạt quyền thì cũng giống như Thái Khang khi trước, ham săn bắn mà bỏ bê quốc sự. Ông loại bỏ các trung thần như Vũ La, Bá Khốn, Long Ngữ, trọng dụng [[Hàn Trác]]{{NoteTag|1={{Tiêu âm|繁=寒浞|简=寒浞|拼音=Hánzhuó|注音=ㄏㄢˊ ㄓㄨㄛˊ|同音字=含浊}}。}}. Hàn Trác vào thời niên thiếu do bịa đặt dối gạt mọi người nên bị quân chủ của [[Bá Minh|Bá Minh thị]] đuổi đi, sau được thủ lĩnh Hữu Cùng thị là Hậu Nghệ thu dưỡng, trở thành một người của Hữu Cùng thị, được trọng dụng{{NoteTag|1=có thuyết ghi rằng Hán Trác được phong làm [[tể tướng|tướng]]{{RefTag|name=中国早期国家性质}}}} Thế lực của Hàn Trác ngày càng lớn mạnh, về sau thừa cơ hội Nghệ ra ngoài săn bắn, Hàn Trác giết Nghệ và gia nhân, đoạt quyền lực và thê của Nghệ, sinh hai con trai là [[Hàn Ế|Ế]]{{NoteTag|1={{Tiêu âm|繁=豷|简=豷|拼音=Yì|注音=ㄧˋ|同音字=易}}。}} và [[Hàn Kiêu|Kiêu]]{{NoteTag|name=浇|1=[[寒澆|浇]]又名[[寒澆|奡]]。}} Hàn Trác đem đất [[Qua (nước) |Qua]]{{NoteTag|1=tại khu vực trung bộ Hà Nam.}} phong cấp cho Ế, đem đất [[Quá (nước)|Quá]]{{NoteTag|1=tương truyền nay ở tây bắc [[Lai Châu, Yên Đài|Lai Châu]] của Sơn Đông.}} phong cấp cho Kiêu. Kiêu nhận mệnh của phụ thân, suất binh trước sau diệt Châm Quán thị và Châm Tầm thị vốn thân Hạ, giết Tướng đang ẩn náu tại Châm Tầm. Thê tử{{NoteTag|1=có thuyết cho là phi tử,}} của Tướng là [[Hậu Hôn|Hôn]]{{NoteTag|1={{Tiêu âm|繁=緡|简=缗|拼音=Hūn|注音=ㄏㄨㄣ|同音字=婚}}。}}{{NoteTag|1=còn viết là “Hậu Hôn”.}} đương thời có mang con của Tướng, bà theo lỗ tường đào tẩu đến quê nhà mẫu thân là [[Hữu Nhưng|Hữu Nhưng thị]]{{NoteTag|1=còn viết là "Hữu Nhâm thị", vào thời Thượng Cổ, chữ Nhâm “任” và chữ Nhưng “仍” có thể thay thế nhau.}}{{NoteTag|1=tương truyền nay thuộc huyện [[Kim Hương]] của Sơn Đông{{RefTag|name=大百科}}{{RefTag|name=史记地名考}}. Thuyết khác cho là nay thuộc huyện [[Nhâm]] của [[Hà Bắc (Trung Quốc)|Hà Bắc]].{{RefTag|name=王玉哲}}}} tị nạn. Không lâu sau, bà sinh hạ [[di phúc tử]] [[Thiếu Khang]]{{NoteTag|name=康}}
 
=== Thiếu Khang trung hưng ===
Sau khi trưởng thành, Thiếu Khang giữ chức mục chính{{NoteTag|1=chức vị quản lý việc chăn nuôi gia súc}} của Hữu Nhưng thị. Sau khi biết chuyện, Kiêu phái người truy sát, Thiếu Khang không đối phó nổi nên chạy đến [[Hữu Ngu|Hữu Ngu thị]] (hậu duệ của Thuấn), được giữ chức bào chính.{{NoteTag|1=chức vị quản lý ẩm thực}} Thủ lĩnh Hữu Ngu thị là Ngu Tư{{NoteTag|name=伯思|1=cũng viết là “Bá Tư”.}} không có con trai mà chỉ có hai con gái,{{NoteTag|1=gọi chung là "nhị Diêu"{{RefTag|name=哀公元年|1=《左传•哀公元年》.}}}} Ngu Tư đem hai người con gái hứa phối cho Thiếu Khang, ban ruộng một thành, người một lữ{{NoteTag|1=[[Đỗ Dự]] chú giải:“vuông mười dặm là (một) thành, năm trăm người là (một) lữ".}}{{NoteTag|name=哀公元年备注|1=“有田一成,有众一旅。”{{RefTag|name=哀公元年}}}} đồng thời đem Luân Ấp{{NoteTag|name=纶邑|1=“Luân” còn viết là “Luân Ấp”.}}{{NoteTag|1=tương truyền nay thuộc tây bộ huyện [[Ngu Thành]], Hà Nam.{{RefTag|name=夏源流史}}}} giao cho Thiếu Khang quản lý. Thiếu Khang lấy Luân Ấp làm căn cứ địa, tổ chức dân chúng Hạ tộc còn lại, thiết quan phân chức. Thiếu Khang phái Nữ Ngải đến triều đình của Kiêu mật thám, chuẩn bị khôi phục Hạ thất.{{RefTag|name=哀公元年}} Đương thời, di thần của Hạ thất là Mĩ{{NoteTag|1=còn viết là “Bá Mĩ”.}} ẩn náu tại Hữu Cách thị{{NoteTag|name=鬲|1=tương truyền nay thuộc phụ cận [[Đức Châu, Sơn Đông|Đức Châu]], Sơn Đông.{{RefTag|name=中国早期国家性质}}}} biết được việc Thiếu Khang chuẩn bị đoạt lại chính quyền, đích thân dẫn tàn dư dân chúng Châm Quán thị, Châm Tầm thị cùng Thiếu Khang hội sư, liên hiệp đánh bại Hàn Trác, phục lập Thiếu Khang là Hạ hậu. Sau khi Thiếu Khang diệt Kiêu ở đất Quá, lại phái con là [[Hạ Trữ|Trữ]]{{NoteTag|1={{Tiêu âm|繁=杼|简=杼|拼音=Zhù|注音=ㄓㄨˋ|同音字=注}}。}} đi diệt Ế ở đất Qua. Đến lúc này, Hữu Cùng thị bị hủy diệt sau gần 100 năm khống chế Trung Nguyên, kết thúc thời kỳ "vô vương" 40 năm.{{RefTag|name=竹書紀年}} Hạ do đó phục quốc, hậu thế gọi là "Thiếu Khang trung hưng". Thông qua giai đoạn từ Thái Khang thất quốc đến Thiếu Khang trung hưng, có thể thấy được lịch trình Hoa Hạ tộc bình định bộ lạc phương quốc Trung Nguyên (nhất là Đông Di tộc).{{RefTag|name=晁福林}}
Con của Hạ Tướng là Thiếu Khang chạy đến nước Hữu Nhưng, được vua Hữu Nhưng giúp sức, muốn mang quân trở về đánh Hàn Trác. Hàn Trác bèn sai Kiêu và Ế đi đánh Hữu Nhưng, song vua Hữu Nhưng bèn thả cho Thiếu Khang bỏ trốn sang nước Hữu Ngu, lại tập hợp lực lượng chống lại Hàn Trác.
 
Sau khi con của Thiếu Khang là Trữ kế thừa hậu vị, ông hiểu rõ sự bất mãn của Đông Di đối với Hạ thất, nhằm củng cố thế lực tại phía đông, ông dời đô thành từ Nguyên{{NoteTag|1=có thuyết cho rằng nay thuộc [[Tế Nguyên]], Hà Nam.}} về phía đông đến Lão Khâu{{NoteTag|1=tương truyền nay thuộc trấn Trần Lưu, huyện [[Khai Phong (huyện)|Khai Phong]], Hà Nam.}} Trữ xem trọng phát triển vũ khí và chế tạo binh giáp. Trong văn hiến thường xuất hiện "Trữ tác giáp", "Trữ tác [[giáo|mâu]]". Ông còn phái người thảo phạt Đông Di ở khu vực duyên hải Đông Nam (nay là khu vực nam bộ [[Sơn Đông]], đông bộ [[An Huy]], [[Giang Tô]]). Theo truyền thuyết, ông bắt được vật cát tường là [[cửu vĩ hồ]]. Bản đồ triều Hạ trong thời gian thống trị của Trữ khoách trương đến bờ Đôn Hải (nay là [[Hoàng Hải]]). Thời kỳ Trữ tại vị cũng là lúc triều Hạ hưng thịnh nhất. Người Hạ đắc biệt tôn trọng đối với Trữ, vì Trữ mà cử hành "báo tế".{{RefTag|name=大百科}}
Trong khi đó, một quý tộc nhà Hạ khác là Mỵ cũng bỏ trốn đến nước Hữu Cách, tập hợp lực lượng đối phó với Hàn Trác. Năm 2080 TCN, Mỵ liên lạc với Thiếu Khang cùng tiến quân trở về kinh thành.
 
Thời con của Trữ là [[Hạ Hòe|Hòe]] tại vị, hai tộc Đông Di và Hoa Hạ bắt đầu cùng tồn tại hòa bình. Trong đó chín bộ lạc cư trú tại lưu vực Hoài Hà-Tứ Thủy là Quyến Di, Vu Di, Phương Di, Hoàng Di, Bạch Di, Xích Di, Huyền Di, Phong Di, Dương Di (tức [[Cửu Di]]) thông thường hướng Hạ hậu nạp cống chúc hạ. Sau khi Hòe mất, con là [[Hạ Mang|Mang]] kế vị, con của Mang là [[Hạ Tiết|Tiết]] kế vị sau khi Mang mất, trong thời gian này hai tộc Đông Di và Hoa Hạ dần đồng hóa. Trong thời gian Tiết tại vị, Đông Di tộc về cơ bản đã đồng hóa, do vậy ông bắt đầu phát triển về phía tây. Đồng thời, ông bắt đầu phong đất phong hiệu cho các phương quốc bộ lạc thuận theo Hạ thất, việc này bắt đầu [[chư hầu|chư hầu chế]] kéo dài trong nhiều thế kỷ sau. Sau khi Tiết mất, con là [[Bất Giáng]]{{NoteTag|1={{Tiêu âm|繁=不降|简=不降|拼音=Bújiàng|注音=ㄅㄨˊ ㄐㄧㄤˋ}}.}} kế vị, từng nhiều lần suất binh chinh thảo Cửu Uyển ở phía tây.{{NoteTag|1=“不降即位……六年,伐九苑。”{{RefTag|1=《太平御览》引自《竹书纪年》。}}}}
Hàn Trác tàn bạo mất lòng dân, quân đội dưới quyền không muốn liều chết. Vì thế khi quân của Thiếu Khang và Mỵ kéo đến, quân Hàn Trác bỏ chạy. Trác bị Thiếu Khang bắt sống và xử tử.
 
=== Thương Thang diệt Kiệt ===
Không lâu sau, Thiếu Khang đem quân đi diệt nước Quá, giết chết Kiêu. Thiếu Khang sai con là Trữ đi đánh nước Qua của Ế. Trữ dùng mưu dụ Ế ra ngoài kinh thành giết chết, tiêu diệt nước Qua. Thiếu Khang thống nhất thiên hạ, khôi phục ngôi vua nhà Hạ.
[[File:Xiajie.png|thumb|<center>Tranh mô tả [[Hạ Kiệt|Kiệt]] cầm [[kích (vũ khí)|kích]], ngồi lên hai nữ bộc.<br />(vẽ vào thời Hán, Vũ lương từ, Gia Tường, Sơn Đông)</center>]]
 
Khi Bất Giáng già yếu, nội thiện cho đệ là [[Hạ Quýnh|Quynh]]{{NoteTag|1={{Tiêu âm|繁=扃|简=扃|拼音=Jiōng|注音=ㄐㄩㄥ}}。}}. Sau khi Quynh mất, con là [[Hạ Cần|Cần]]{{NoteTag|1={{Tiêu âm|繁=廑|简=廑|拼音=Jǐn|注音=ㄐㄧㄣˇ|同音字=紧}}. Quốc ngữ Đài Loan :{{Tiêu âm|注音=ㄐㄧㄣˋ|拼音=Jìn|同音字=晉}}。}} kế vị. Sau khi kế vị không lâu, Cần bệnh mất, đường huynh là [[Khổng Giáp]]- con của Bất Giáng- kế vị. Khổng Giáp tiến hành cải biến truyền thống tế tự tổ tông trong Hạ lễ, bắt đầu tế tự Thiên Đế. "Sử ký-Hạ bản kỉ" thuật rằng Khổng Giáp "ham thích thuật quỷ thần, làm việc dâm loạn".{{NoteTag|1=“帝孔甲立,好方鬼神,事淫乱。夏后氏德衰,诸侯畔之。”{{RefTag|name=夏本纪}}}} Không ít phương quốc bộ lạc bắt đầu bất mãn đối với Hạ thất, song quan hệ giữa Hoa Hạ tộc và Đông Di tộc vẫn hữu hảo, có khả năng là do độ đồng hóa giữa hai tộc đã khá cao. Từ thời Khổng Giáp, Hạ hậu thị bắt đầu ngày càng suy lạc.{{NoteTag|1=“孔甲乱夏,四世而陨。”{{RefTag|name=周语|1=《国语·周语》.}}}} Khi Khổng Giáp mất, con là [[Hạ Cao|Cao]]{{NoteTag|1={{Tiêu âm|繁=皋|简=皋|拼音=Gāo|注音=ㄍㄠ|同音字=高}}。}} kế vị. Khi Cao mất, con là [[Hạ Phát|Phát]]{{NoteTag|1={{Tiêu âm|繁=發|简=发|拼音=Fā|注音=ㄈㄚ}}。}} kế vị. Trong giai đoạn này, quan hệ giữa phương quốc bộ lạc và Hạ thất xấu đi, tranh chấp trong nội bộ thị tộc mãnh liệt hơn. Từ thời Khổng Giáp qua Cao và Phát, đến Lý Quý (biệt danh [[Hạ Kiệt]]), nội loạn không ngừng.
Tính từ Thái Khang đến Thiếu Khang, nhà Hạ bị mất ngôi chính thống 4 đời, lưu lạc ở nước ngoài.
 
Sau khi Phát mất, con là Lý Quý (Kiệt) kế vị. Kiệt là người giỏi võ, "Sử ký-Luật thư" chép rằng Kiệt "tay đánh [[chó rừng|sài lang]], chân truy tứ mã{{RefTag|1=《史记·律书》.}}" Trong thời gian Kiệt tại vị, quan hệ giữa Hạ thất và phương quốc bộ lạc đã bị phá vỡ, số bộ lạc cống nạp cho Hạ không ngừng giảm thiểu, Kiệt do vậy thường thảo phạt bộ lạc không quy phục. Trong văn hiến có ghi rằng Kiệt tham sắc, sau khi đánh bại mỗi bộ lạc thì tuyển chọn phi tử trong số các nữ giới. Hữu Thi thi{{注|1=còn viết là “Hữu Hỉ thị”.}} đề cập trong "Quốc ngữ-Tấn ngữ"{{注|1=“有施氏以妹喜女焉。”{{参|1=《国语·晋语》.}}}}; Mân Sơn thị, Mạt Hỉ thị đề cập trong "Trúc thư kỷ niên" đều có kết cục như vậy. Trong đó, [[Muội Hỉ]] của Mạt Hỉ thị kết giao với [[Y Doãn]]{{注|1=“Hậu Kiệt phạt Mân Sơn, Mân Sơn dâng hai người con gái cho Kiệt, gọi là Uyển, Diễm. Kiệt nhận hai người con gái, không có con, khắc tên của họ vào ngọc Điều Hoa, điều là Uyển, Hoa là Diễm. Mà bỏ quên nguyên phi ở Lạc, gọi là Mạt Hỉ thị. Mạt Hỉ thị và Y Doãn kết giao, rồi do thám Hạ.”{{参|name=竹書紀年}}}} Kiệt nhiều lần chinh phục chọc giận không ít bộ tộc khá có quyền uy. Hữu Mân thị{{注|name=有缗氏}}{{注|1=hậu duệ của [[Thiếu Hạo]].}} do không phục tùng Kiệt mà bị diệt. Bộ tộc Thương mang tính Tử, hoạt động tại khu vực nay là tây nam bộ tỉnh Sơn Đông, bắt đầu trở nên hưng vượng chính là trong thời loạn này của triều Hạ. Kiệt cũng nhân việc Thương không phục làm lý do để thảo phạt, đánh bại thủ lĩnh của Thương là [[Thành Thang|Thang]]. Thang bị cầm tù tại Hạ Đài{{注|1=còn viết là Quân Đài.}}{{注|name=古钧台}}, sau đó được phóng thích. Ngoài việc đề cập đến quan hệ đối ngoại xấu đi, trong các văn hiến còn đề cập đến việc Kiệt dùng người không thích hợp trong triều đình.
== Diệt vong ==
{{Chính|Hạ Kiệt|Thành Thang}}
Năm 2058 TCN, vua Thiếu Khang mất, con là Trữ nối ngôi. Từ Trữ truyền 8 đời đến vua [[Khổng Giáp]] (1879 - 1849 TCN) thì nhà Hạ bắt đầu suy sụp. Khổng Giáp tin quỷ thần và hoang dâm do đó nhiều chư hầu không thần phục nhà Hạ nữa. Qua 3 đời vua, đến đời thứ 17 nhà Hạ là vua Lý Quý, còn gọi là [[Hạ Kiệt|Kiệt]] (1826 - 1774 TCN).
 
Kiệt chỉ quan tâm đến hưởng lạc, không màng tới khổ cực của dân gian. Theo truyền thuyết, dân Hạ nguyền rủa cho Kiệt sớm ngày quy thiên, Kiệt biết được thì nói đùa rằng bản thân là [[Mặt Trờ|Thái Dương]] trên trời, Thái Dương bất tử thì ông cũng tử bất, dân Hạ liền chỉ Thái Dương trách, hỏi Thái Dương khi nào thì phá diệt, tình nguyện cùng diệt vong.{{NoteTag|1=“时日曷丧?予及汝皆亡。”{{RefTag|name=汤誓|1=《尚书·商书·汤誓》.}}}}{{RefTag|1=《新序·刺奢》、《韩诗外传]卷二.}} Khoảng cuối thế kỷ 17 TCN và đầu thế kỷ 16 TCN, thủ lĩnh bộ tộc Thương là Thang lợi dụng tâm lý dân Hạ hận Kiệt, liên kết phương quốc bộ lạc thảo phạt Kiệt. Liên minh diệt trừ các bộ tộc thân Hạ là Vi{{NoteTag|name=豕韦|1=nay ở bắc bộ tỉnh Hà Nam.}}, Cố{{NoteTag|name=顾|1=tương truyền nay thuộc huyện [[Phạm (huyện)|Phạm]] của tỉnh Hà Nam.}}, [[Côn Ngô]]{{NoteTag|name=昆吾|1=tương truyền nay thuộc [[Hứa Xương]], Hà Nam.}}{{NoteTag|name=三蘖|1=gọi chung là “Tam Nghiệt”.{{RefTag|name=晁福林}}{{RefTag|name=长发}}}}, sau đó khai chiến với Kiệt. Thế lực của Khang lớn, Kiệt ngăn chặn không được, vừa chiến vừa trốn, cuối cùng chiến bại tại đất cũ của Hữu Tung thị. Kiệt trốn đến Minh Điều{{NoteTag|1=có thuyết cho rằng nay thuộc trung bộ Hà Nam, có thuyết cho rằng nay thuộc [[Hạ (huyện)|An Ấp]], [[Vận Thành]] của [[Sơn Tây (Trung Quốc)|Sơn Tây]].}} Thang đuổi kịp, triển khai đại chiến tại đây. Kiệt một lần nữa bị đánh bại, bị Thang đuổi đày tại Lịch Sơn{{NoteTag|1=歷山, còn viết là 鬲山, tương truyền nay là Lịch Sơn tại khu [[Huy Châu]], [[Hoàng Sơn (thành phố)|Hoàng Sơn]] thuộc [[An Huy]].}} cùng sống với Mạt Hỉ thị, cuối cùng đến núi ở Nam Sào{{NoteTag|1=tương truyền nay thuộc [[Sào Hồ]], tỉnh An Huy.}} thì mất ở đó. "[[Hoài Nam Tử]]-Tu Vũ huấn" thì viết có chút bất đồng, theo đó Thang "chỉnh binh ở Minh Điều, bao vây quân Hạ tại Nam Sào, trách mắng việc đã qua (của Kiệt), đầy đến Lịch Sơn".{{RefTag|1=《淮南子·修务训》.}} Trong truyền thuyết của hậu thế, Hạ hậu Kiệt bị miêu tả là một bạo quân, hậu nhân thường đem Hạ hậu Kiệt và Thương [[Trụ Vương]], [[Chu Lệ Vương]] và [[Chu U Vương]] gọi chung là các bạo quân họa quốc ương dân, nhưng trong các văn hiến khá sớm thì Kiệt được ghi chép rất giản lược. "Thượng Thư-Thang thệ" có ghi rằng khi Thang phạt Kiệt có nêu ra tội trạng của Kiệt chỉ là "suất át chúng lực, suất cát Hạ ấp".{{RefTag|name=汤誓}} Trong [[trận Minh Điều]], Hạ thất bị lật đổ, Thang nhận được sự ủng hộ của phương quốc bộ lạc mà xưng vương tại Bạc{{NoteTag|1=có thuyết cho rằng nay là di chỉ Thương thành Trịnh Châu tại Hà Nam, có thuyết cho rằng nay là di chỉ Thương thành Yển Sư cũng thuộc Hà Nam.{{RefTag|name=王玉哲}}}}, kiến lập [[nhà Thương|Thương vương triều]], trở thành lần thay đổi triều đại đầu tiên trong lịch sử Trung Quốc. Chính quyền thế tập đầu tiên tại Trung Quốc là Hạ triều truyền được 14 đời, 17 vua{{NoteTag|name=16后}}, trải qua 471 năm{{NoteTag|name=竹书四七一年}}.
Hạ Kiệt tàn bạo, hoang dâm, mê nàng [[Muội Hỉ|Muội Hỷ]], bị dân chúng oán ghét. Các chư hầu nổi dậy chống lại Kiệt, Kiệt mang quân đánh dẹp các bộ tộc đó. Một thủ lĩnh bộ lạc Thương là [[Thành Thang]] bị Kiệt bắt giam ở Hạ Đài. Sau một thời gian, Kiệt thả Thương Thang. Thương Thang trở về nước, ra sức làm việc nhân đức, quy tập lực lượng. Các chư hầu quy phục Thương.
 
=== Hậu duệ ===
Khoảng năm 1767 TCN, [[Thành Thang]] dấy quân đánh Hạ Kiệt. Vua Kiệt thua chạy ra đất Minh Điều, nói với thủ hạ:
Sau khi Hạ diệt vong, thế lực còn lại chủ yếu lưu cư Trung Nguyên{{NoteTag|1=[[Phó Tư Niên]] căn cứ ghi chép trong "[[Tuân Tử (sách)|Tuân Tử]]·Nho hiệu thiên đệ bát" là "Quân tử cư Sở nhi Sở, cư Việt nhi Việt, cư Hạ nhi Hạ"{{RefTag|1=《荀子·儒效篇第八》.}}, đoán rằng hậu duệ Hạ tộc cho đến thời kỳ [[Chiến Quốc]] vẫn phần nhiều cư trú tại đất Dự Trung Nguyên.{{RefTag|1={{Cite journal|title=“新获卜辞写本后记跋”|author=傅斯年|journal=《安阳发掘报告》|year=1930年|issue=第2期|language=Trung văn phồn thể}}}}}} song cũng có hai chi phân biệt thiên di hướng bắc và hướng nam. Kiệt đem theo không ít dân chúng Hạ tộc từ Lịch Sơn nam thiên đến Nam Sào, chính là chi phía nam. Chi phía bắc tiến vào cao nguyên Mông Cổ, cùng các tộc bản địa dung hợp, có người nhận định đấy chính là dân tộc được hậu nhân gọi là [[Hung Nô]]. "Sử ký-Hung Nô liệt truyện" có chép rằng "tiên tổ của Hung Nô cũng là hậu duệ của Hạ hậu thị, gọi là [[Thuần Duy]]{{NoteTag|1=có thuyết cho rằng Thuần Duy là tên con của Hạ Kiệt, không phải là gọi chung duệ tộc chi phía bắc}}{{RefTag|1=《史记·匈奴列传》.}}". "Quát địa phả" cho biết chi tiết hơn " con (Hạ Kiệt) là Huân Dục{{NoteTag|1={{Tiêu âm|繁=獯鬻、獯粥|简=獯粥、獯鬻|拼音=Xūnyù|注音=ㄒㄩㄣ ㄩˋ|同音字=勋欲}}。}}{{NoteTag|1=còn viết là Hiểm Doãn, Nghiêm Doãn, Hiểm Duẫn.}} có thê là thê thiếp của Kiệt, tị cư ở Bắc Dã, di dời theo thú nuôi, Trung Quốc gọi là Hung Nô{{RefTag|1=《括地谱》.}}". Thương Thang phong một chi của Hạ thất mang họ Tự tại [[Kỷ (nước)|Kỷ quốc]] để phụng tự tông miếu tổ tiên{{RefTag|1=《列子釋文》.}}{{RefTag|1={{Cite journal|title=“由三代都邑论其民族文化”|author=丁山|journal=《历史语言研究所集刊》|year=1935年|issue=第5本|language=Trung văn phồn thể}}}}. "Sử ký-Trần Kỉ thế gia" ghi rằng hậu duệ Hạ tộc tại "Ân thời hoặc phong hoặc tuyệt"{{RefTag|1=《史记·陈杞世家》.}} Sau khi [[Chu Vũ Vương]] diệt Thương và trở thành vương, ông phong hậu duệ của Đại Vũ là [[Kỷ Đông Lâu công|Đông Lâu công]] tại đất Kỷ, tiếp tục quốc tộ Kỉ quốc, chủ quản việc tế tự đối với Vũ. Mạt kỳ [[Xuân Thu]], [[Khổng Tử]] do sùng thượng Hạ lễ nên còn đặc biệt đến Kỷ quốc phỏng vấn khảo sát{{RefTag|1=《论语·八佾第三》、《礼记·礼运》.}} Tại thôn Vũ Lăng ở Cối Kê Sơn thuộc Thiệu Hưng của Chiết Giang, đời sau họ Tự của Hạ Vũ đến nay vẫn giữ lăng của Vũ{{NoteTag|1=không rõ niên đại giữ lăng cụ thể. Bi đình của "Đại Vũ lăng" là do Thiệu Hưng tri phủ Nam Đại Cát mệnh Trương Minh Đạo thuật lại bia văn vào năm Gia Tĩnh thứ 20 (1541) thời Minh, đến năm 1979 thì được xây lại.{{RefTag|1={{Cite web|url=http://www.shaoxing.gov.cn/index/sxgk/wwgj.htm|title=文物古迹|publisher=中国浙江绍兴县人民政府官方网站|language=Trung văn giản thể|accessdate=2011-08-24}}}}}}{{RefTag|1={{Cite web|url=http://www.chinaculture.org/gb/cn_whyc/2006-10/19/content_87161.htm|title=大禹祭典|publisher=中华人民共和国文化部外联局中国文化网|accessdate=2010-12-05|language=Trung văn giản thể}}}} Quách Mạt Nhược, Hồ Hậu Tuyên, Trình Cảnh nhận định [[Thổ phương]] trong [[Giáp cốt văn]] chính là Hạ sau khi chiến bại.{{RefTag|1={{Cite journal|title=“夏禹的问题”|author=[[郭沫若]]|journal=《中国古代社会研究》|year=1930年|pages=第351页|language=Trung văn phồn thể}}}}{{RefTag|name=殷商史|1={{Cite book|title=《中国断代史系列—殷商史》|author=[[胡厚宣]]、[[胡振宇]]|publisher=上海人民出版社|date=2003年4月|pages=第41—52页|language=Trung văn giản thể|isbn=7-208-04584-4}}}}{{RefTag|1={{Cite journal|title=“夏民族考”|author=[[程憬]]|journal=《大陆杂志》|year=1932年|volume=卷一|issue=第5、6期|language=Trung văn phồn thể}}}} Căn cứ ghi chép trên [[Bốc từ]], Thổ phương là một phương quốc lớn mạnh ở tây bắc của Ân{{NoteTag|1=khoảng lưu vực [[Sông Phần|Phần Hà]] trong địa phận Sơn Tây hiện nay.}}, là đối tượng mà [[Vũ Đinh]] và các vua Thương trước đó trường kỳ chinh thảo. Sau khi Vũ Đinh chinh phục Thổ phương, tại "Đường thổ" trong nội địa của Thổ phương cho kiến thiết nên thành ấp lớn là "Đường", khống chế nhân dân Thổ phương, về sau không lại thấy có ghi chép Thổ phương bạn biến.{{RefTag|name=殷商史}} Thời Chu sơ, [[Chu Thành Vương|Thành Vương]] phong quân chủ đầu tiên của [[Tấn (nước)|Tấn quốc]] là [[Đường Thúc Ngu]] ở nơi đó.{{RefTag|1=《左传·定公四年》.}}
:''Ta hối hận không giết Thang nên mới ra nông nỗi này''
 
== Phạm vi thế lực và phân chia hành chính ==
Thương Thang diệt nhà Hạ, lập ra [[nhà Thương]]. Hạ Kiệt ở ngôi 52 năm, bị đày ra Nam Sào 3 năm thì chết tại núi Đình Sơn. Thang phong cho con cháu nhà Hạ, đến thời [[nhà Chu]] đất ấy gọi là nước [[Kỷ (nước)|Kỷ]].
Triều Hạ tồn tại trong khoảng thời gian quá độ từ liên minh thành bang bộ lạc tới quốc gia phong kiến, do đó không có cương vực rõ ràng. Quan hệ giữa thị tộc Hạ và các thành bang bộ lạc khác khá giống với kiểu quan hệ giữa nước tông chủ và nước triều cống. Tuy nhiên, có một ít phương quốc được Hạ thất phân phong, giống như nước chư hầu. Do vậy, chỉ có thể lấy phạm vi thế lực để biểu thị lực ảnh hưởng của triều Hạ. 11 chi họ Tự của Hạ tộc và vương thất trung ương Hạ hậu thị về dòng máu có quan hệ tông pháp, về chính trị có quan hệ phân phong, về kinh tế có quan hệ cống phú, nói chung cấu thành phạm vi lãnh thổ lõi của vương triều Hạ.{{RefTag|name=郑杰祥|1={{Cite book|title=《新石器文化与夏代文明》|author=郑杰祥|publisher=江苏教育出版社|date=2005年4月|language=zh-cn|isbn=7-80643-915-3}}}} Hạ bắt đầu từ tây bộ Hà Nam và nam bộ Sơn Tây ở phía tây; phía đông đến nơi giao giới giữa ba tỉnh Hà Nam, Sơn Đông, Hà Bắc; phía nam đến bắc bộ tỉnh Hồ Bắc; phía bắc lên tới nam bộ tỉnh Hà Bắc. Khu vực này có trung tâm địa lý nay là dải Yển Sư, Đăng Phong, Tân Mật, Vũ Châu.{{RefTag|name=大百科}} Đương thời, thế lực của Hạ kéo dài ra nam bắc [[Hoàng Hà]], thậm chí là đến lưu vực [[Trường Giang]]. Vào tảo kỳ triều Hạ, Hạ tộc chủ yếu sinh hoạt tại vùng đất Hà Nội ở trung nam bộ Sơn Tây, men theo [[Sông Phần|Phần Thủy]], Hà Thủy dời đến phía đông nam, vãn kỳ đến lưu vực Y-Hà ở trung bộ Hà Nam. "Quốc ngữ-Chu ngữ thượng" viết rằng "xưa Y Lạc khô cạn nên Hạ mất{{RefTag|1=《国语•周语上》.}}", có thể thấy sông Y-Lạc mang tính trọng yếu đối với vùng thủ đô thời vãn kỳ của Hạ.{{RefTag|name=王玉哲}}
 
=== Chín châu trong truyền thuyết ===
==Khám phá khảo cổ học==
[[File:禹贡九州图.jpg|thumb|300px|<center>Vũ cống cửu châu đồ (hướng phía trên là hướng tây)<br />(làm vào thời Nam Tống)</center>]]
{{xem thêm|Hạ Thương Chu đoạn đại công trình}}
Về phân chia hành chính, triều Hạ chọn thi hành cửu châu chế. Căn cứ theo ghi chép trong "Thượng Thư-Vũ cống", sau khi Đại Vũ trị thủy thành công, đem Trung Thổ phân thành chín châu là Kí, Duyện, Thanh, Từ, Dự, Dương, Kinh, Lương, Ung{{NoteTag|name=九州九等|1=<br />冀州:厥賦惟上上錯,厥田惟中中。恒衛旣從,大陸旣作。島夷皮服。<br />兗州:厥田惟中下,厥賦貞,作十有三載乃同。厥貢漆絲,厥篚織文。<br />青州:厥田惟上下,厥賦中上。厥貢鹽、絺,海物惟錯,岱畎絲、枲、鉛、松、怪石。萊夷作牧,厥篚檿絲。<br />徐州:厥田惟上中,厥賦中中。厥貢惟土五色,羽畎夏翟,嶧陽孤桐,泗濱浮磬,淮夷蠙珠暨魚。厥篚玄纖縞。<br />[[扬州 (古代)|揚州]]:厥田惟下下,厥賦下上,上錯。厥貢惟金三品,瑤、琨、筿簜、齒、革、羽、毛惟木。島夷卉服,厥篚織貝;厥包橘、柚,錫貢。<br />荊州:厥田惟下中,厥賦上下。厥貢羽、毛、齒、革,惟金三品,杶、榦、栝、柏,礪、砥、砮、丹惟稇、簵、楛。三邦厎貢厥名,包匭菁茅;厥篚玄纁璣組。九江納錫大龜。<br />豫州:厥田惟中上,厥賦錯上中。厥貢漆、枲、絺、紵、厥篚纖纊,錫貢磬錯。<br />梁州:厥田惟下上,厥賦下中三錯。厥貢璆、鐵、銀、鏤、砮、磬、熊、羆、狐、貍、織皮。<br />雍州:厥田惟上上,厥賦中下。厥貢惟球、琳、瑯玕。織皮:昆侖、析支、渠搜。{{RefTag|name=禹贡|1=《尚书•夏书•禹貢》.{{NoteTag|1=《禹贡》一篇讲述大禹治水成功后治理九州的情景,虽然托名为大禹之为事,实则是后人根据夏时期情况结合东周战国时期的情况加工美化的记载。{{RefTag|name=晁福林}}{{RefTag|name=周振鹤}}}}}}}}, và chiếm lấy đồ kim thuộc và thạch khoáng từ chín châu{{NoteTag|1=có thuyết nói rằng chín châu gọi chung chín vị thủ lĩnh "Cửu Mục" cống lên kim thạch}}, đúc ra [[cửu đỉnh]] để tượng trưng cho quyền lợi quốc gia, do vậy "Cửu Châu" trở thành danh từ đại diện cho quốc gia Trung Quốc, và ý "định đỉnh" là kiến lập chính quyền.{{NoteTag|1="Mặc Tử-Canh trú" ghi: "ngày xưa, Hạ hậu [[Hạ Khải|Khai]]{{NoteTag|name=启名开}} sai [[Phi Liêm]] đi đổi lấy kim loại tại Sơn Xuyên, làm đồ gốm và đúc tại Côn Ngô,...cửu đỉnh đã hoàn thành, dời đến [[Tam Đại (lịch sử Trung Quốc)|Tam Quốc]].{{RefTag|name=耕柱|1=《墨子•耕柱》.}}”,viết rằng Khải đúc đỉnh tại Côn Ngô, và sau đó Hạ truyền Ân, Ân truyền Chu.}}{{RefTag|name=中国法制通史}} Theo "Vũ cống", chín châu phân chia như sau{{RefTag|name=中国商业史|1={{Cite book|title=《中国商业史》|author=王孝通|publisher=上海书店|year=1936年|pages=第14页|language=Trung văn phồn thể}}}}:
 
#Ký châu (冀州), giáp bên phải Kiệt Thạch đến [[Hoàng Hà|Hà]], ba mặt cách Hà, là nơi đường cống nạp của các châu đều đi qua. Nay thuộc các tỉnh Sơn Tây, Hà Bắc và tây bộ [[Liêu Ninh]].
Đã có một cuộc tranh luận về sự liên quan của [[văn hoá Nhị Lí Đầu]] với nhà Hạ. Điều tra phóng xạ bằng carbon thiết lập thời đại của di chỉ là từ 2100 đến 1800 TCN, cung cấp bằng chứng vật lý cho sự tồn tại của nhà nước đương thời và có thể tương đương với nhà Hạ như mô tả trong các tác phẩm lịch sử Trung Quốc <ref>[[John K. Fairbank|Fairbank, John K.]] ''China: A New History''. Cambridge: Harvard University Press, 1992, page 35.</ref>. Năm [[1959]], tại một điểm đặt ở [[Yển Sư]] đã khai quật được một cung điện lớn mà một số nhà khảo cổ cho là kinh đô của nhà Hạ. Trong những năm 1960 và 1970, các nhà khảo cổ đã phát hiện ra các điểm đô thị và các ngôi mộ tại các địa điểm được trích dẫn trong văn bản lịch sử cổ đại Trung Quốc về nhà Hạ <ref name=library/>; ở mức tối thiểu, nhà Hạ đánh dấu một giai đoạn tiến hóa giữa các nền văn hóa đồ đá mới và nền văn minh đô thị Trung Quốc tiêu biểu của nhà Thương <ref name=library>{{chú thích web|url=http://lcweb2.loc.gov/cgi-bin/query/r?frd/cstdy:@field%28DOCID+cn0013%29|title=China – the ancient dynasties|publisher=Library of Congress Country Studies|archiveurl=https://archive.is/Bud9|archivedate=2012-12-12}}</ref>.
#Duyện châu (兗州), thuận theo Tể, Tháp, cho đến Hà. Nay là tây bộ Sơn Đông, góc đông nam của Hà Bắc.
#Thanh châu (青州), thuận theo Vấn, cho đến Tể. Nay là khu vực bán đảo Sơn Đông phía đông [[Thái Sơn]].
*Từ châu (徐州), thuận theo Hoài, Tứ, cho đến Hà. Nay là khu vực phía bắc [[Hoài Hà]] của Giang Tô, An Huy và nam bộ Sơn Đông.
*Dương châu (揚州), men theo Giang, Hải, cho đến Hoài, Tứ. Nay là khu vực phía nam Hoài Hà của Giang Tô, An Huy và bắc bộ hai tỉnh Chiết Giang, Giang Tây.
*Kinh châu (荊州), thuận theo Giang, Đà, Tiềm, Hán, vượt qua Lạc, cho đến Nam Hà. Nay là Hồ Bắc, vùng phía bắc [[Hành Sơn]] của Hồ Nam và phần cực tây bắc của Giang Tây.
*Dự châu (豫州), thuận theo Lạc, cho đến Hà. Nay là Hà Nam, bắc bộ Hồ Bắc, đông nam bộ Thiểm Tây, góc tây nam của Sơn Đông.
*Lương châu (梁州), thuận theo Tiềm, vượt qua Miện, tới Vị, loạn với Hà. Nay là Tứ Xuyên, cực nam của Thiểm Tây và Cam Túc.
*Ung châu (雍州), thuận theo Tích Thạch, đến Long Môn Tây Hà, hội ở Vị, Nhuế. Nay là Thiểm Tây, Cam Túc, Ninh Hạ, Thanh Hải.
 
Cửu châu mượn danh từ công việc của Đại Vũ, kỳ thực là do người thời Chiến Quốc ước đoán phân chia Thiên hạ. Quốc gia thời Hạ nằm ở giai đoạn manh nha, bức xạ chính trị nhìn chung không vượt khỏi thành ấp nội địa, ở ngoài kinh kì thì thông qua phong bang kiến quốc theo thị tộc chế cùng với thông hôn kết minh mà đạt thành quan hệ. Do lãnh thổ nhỏ hẹp, chính quyền trung ương đơn nhất không cần thiết hay không có năng lực phân chia khu vực hành chính.{{RefTag|name=周振鹤|1={{Cite book|title=《中国历代行政区划的变迁》|author=周振鹤|publisher=商务印书馆|date=1998年11月|location=中国北京|language=Trung văn giản thể|isbn=7-100-02424-2}}}}
Theo báo cáo vào năm [[2011]], các nhà khảo cổ học Trung Quốc đã phát hiện ra phần còn sót lại của một cung đình được xác định niên đại vào năm 1700 TCN tại Nhị Lí Đầu ở tỉnh [[Hà Nam (Trung Quốc)|Hà Nam]], làm tăng thêm trọng lượng cho các bằng chứng chứng minh cho sự tồn tại của nhà Hạ <ref>{{chú thích web | title=China finds 3,600-year-old palace | url=http://english.peopledaily.com.cn/90782/7675375.html | publisher=People's Daily Online | date=13 December 2011}}</ref>.
 
==Thần= thoạiĐô thành ===
Thời kỳ viễn cổ, chưa có khái niệm rõ ràng về đô ấp, xã hội trong giai đoạn nửa chăn nuôi đi săn, nửa trồng trọt định cư, dân của bộ tộc Hạ theo thủ lĩnh và tráng đinh trong tộc thiên di. Sau khi tài nguyên đương địa đã tận, họ liền thiên di đến đất khác, không thường trú tại một nơi. Vùng đất Hạ hậu cư trú gọi là "Đại Ấp" hoặc "Hạ Ấp", đó là khái niệm nguyên thủy của thủ đô quốc gia.{{RefTag|name=晁福林}} Văn hiến ghi chép thủ lĩnh Hạ tộc trước sau định cư tại 17 xứ: Đại Hạ, Hạ Khư {{NoteTag|1=còn viết là “夏虛”, vào thời thượng cổ, hai chữ “虛” và “墟” có thể thay cho nhau.}} Cao Mật{{NoteTag|name=密都|1=“Cao Mật” cũng viết là “Mật Đô”.}} Dương Thành, Dương Trạch, Tấn Dương, Bình Dương, Ký{{NoteTag|1=còn viết là "Kí châu".}}, An Ấp, Hạ Ấp, Châm Tầm, Đế Khâu{{NoteTag|name=商丘}}, Luân{{NoteTag|name=纶邑}}, Nguyên, Lão Khâu, Tây Hà, Hà Nam.{{NoteTag|1=Ngoài ra, còn có "Mục Thiên Tử truyện" chép rằng đến Hạ hậu Khải cư trú tại "Hoàng đài chi khâu", trên gò nhìn "Hoàng đài"{{RefTag|1=《穆天子傳•卷五》.}}, hai đất này hiện không thể khảo chứng. [[Sử Niệm Hải]] nhận định ứng với lưu vực Cổ Vị Thủy giữa Trịnh Châu và [[Tân Mật|Mật huyện]] tại Hà Nam{{RefTag|1={{Cite book|title=《中国古都和文化》|author=史念海||publisher=中华书局|year=1998年|language=Trung văn giản thể|isbn=7-101-01585-9}}}}. Có thuyết cho rằng là di chỉ Tân Trại ven sông Kịp thuộc thôn Tân Trại, trấn Lưu Trại ở đông nam huyện [[Tân Mật]], Hà Nam.{{RefTag|name=张莉|1={{Cite journal|title=“夏代早期都城研究”|author=张莉|journal=《二里头遗址与二里头文化研究》|publisher=科学出版社|location=中国北京|year=2006年|month=12月|pages=第433—435页|language=Trung văn giản thể|isbn=7-03-017833-5}}}}}} Vị trí cụ thể của các đô ấp này đều dĩ nhiên không có cách nào khảo chứng, trong đó một số có khả năng là biệt danh của cùng một thành ấp.{{RefTag|name=晁福林}}{{RefTag|name=王玉哲}}
Trong quyển 5 của sách ''Mặc Tử'', [[Mặc Tử]] mô tả sự sáng lập của nhà Hạ với mô tả của những sự cố tự nhiên. Mặc dù một số nhà sử học Trung Quốc coi mô tả của Mặc Tử là một huyền thoại không có cơ sở lịch sử, những người khác coi nó như là một mô tả bằng thơ của những tác động gây ra bởi sự xáo trộn khí hậu do núi lửa. "Mặt trời mọc vào ban đêm" có thể ám chỉ ánh sáng rực rỡ của núi lửa, "mưa máu" có thể là để chỉ mưa màu đỏ tạo ra bởi tro trong bầu khí quyển, nước biến thành băng có thể biểu thị nhiệt độ mùa hè lạnh bất thường, tro đỏ có thể được nhìn thấy trong đền thờ và giải thích như là một dấu hiệu của sự hiện diện gần đó của con rồng.
 
{|class="wikitable" style="margin:auto;"
== Các vị vua Nhà Hạ ==
! colspan=4 | Biến đổi vùng đất cư trú của thủ lĩnh Hạ tộc<br />{{RefTag|name=晁福林}}{{RefTag|name=夏源流史}}{{RefTag|name=史记地名考}}{{RefTag|name=简明中国历史地图集}}
{{Thế phả quân chủ triều Hạ}}
Bảng sau đây liệt kê những người cai trị của Hạ theo Sử kí của Tư Mã Thiên. Không giống như danh sách của Tư Mã Thiên về các vua của nhà Thương, hồ sơ của các vua nhà Hạ đã không được tìm thấy trong các cuộc khai quật khảo cổ.
 
{| class="wikitable"
! style="background:#efefef;" colspan="5" | [[Thụy hiệu|Thuỵ hiệu]] 諡號<sup>1</sup>
|-
! Thủ lĩnh !! Đất ở !! Địa danh hiện tại
! Thứ tự
! Cai trị<sup>2</sup>
! [[Tiếng Trung Quốc]]
! [[Phiên âm Hán-Việt|Âm Hán Việt]]
! Ghi chú
|-
| rowspan=2 | Cổn || Đại Hạ{{NoteTag|name=大夏安邑|1=có thuyết cho rằng Đại Hạ tức là An Ấp.}} || tương truyền nay thuộc huyện [[Hạ (huyện)|Hạ]], Sơn Tây{{RefTag|name=夏源流史}}
| 01
| 45
| 禹
| class = "lft" | [[Hạ Vũ|Vũ]]
| cũng gọi là Đại Vũ (大禹)
|-
| Tung{{NoteTag|name=崇}} || tương truyền nay thuộc huyện [[Tung (huyện)|Tung]], Hà Nam.{{RefTag|name=史记地名考}}
| 02
| 10
| 啟
| class = "lft" | [[Hạ Khải|Khải]]
| con của Vũ
|-
| rowspan=6 | Vũ || Cao Mật{{NoteTag|name=密都}} || tương truyền nay nằm trong địa phận huyện Tân An, Hà Nam{{RefTag|1={{Cite book|title=中国古史的传说时代|author=徐旭生|publisher=广西师范大学出版社|year=2003年|language=Trung văn giản thể|isbn=9787563342273}}}}
| 03
| 29
| 太康
| class = "lft" | [[Thái Khang]]
| con của Khải
|-
| Dương Thành{{NoteTag|name=阳城阳翟|1=có thuyết cho rằng Dương Thành tức là Dương Trạch.}} || tương truyền nay thuộc trấn Cáo Thành, [[Đăng Phong]], Hà Nam{{RefTag|name=简明中国历史地图集|1={{Cite book|title=《简明中国历史地图集》|author=谭其骧|publisher=中国地图出版社|date=1991年10月1日|isbn=7503110155|language=Trung văn giản thể}}}}
| 04
| 13
| 仲康
| class = "lft" | [[Trọng Khang]]
| con của Khải, em của Thái Khang
|-
| Dương Trạch{{NoteTag|name=阳城阳翟}} || tương truyền nay thuộc [[Vũ Châu]], [[Hứa Xương]], Hà Nam{{RefTag|name=简明中国历史地图集}}
| 05
| 28
| 相
| class = "lft" | [[Tướng (vua nhà Hạ)|Tướng]]
| cũng gọi là Tướng, con của Trọng Khang
|-
| Tấn Dương{{NoteTag|name=晋阳平阳|1=có thuyết cho rằng Tấn Dương tức là Bình Dương.}} || tương truyền nay thuộc trấn Tấn Nguyên, [[Thái Nguyên, Sơn Tây|Thái Nguyên]], Sơn Tây{{RefTag|name=夏源流史}}
| 06
| 23
| 少康
| class = "lft" | [[Thiếu Khang]]
| con của Tướng
|-
| Bình Dương{{NoteTag|name=晋阳平阳}} || tương truyền nay là tây nam [[Lâm Phần]], Sơn Tây{{RefTag|name=夏源流史}}
| 07
| 17
| 杼
| [[Hạ Trữ|Trữ]]
| cũng gọi là Mân, Thư hay Trừ, con của Thiếu Khang
|-
| An Ấp{{NoteTag|name=大夏安邑}} || tương truyền nay là đông bắc huyện [[Hạ (huyện)|Hạ]], Sơn Tây{{RefTag|name=夏源流史}}
| 08
| 26
| 槐
| class = "lft" | [[Hạ Hòe|Hòe]]
| cũng gọi là Phần, con của Mân
|-
| Khải, Thái Khang || Dương Trạch || -
| 09
| 18
| 芒
| class = "lft" | [[Hạ Mang|Mang]]
| cũng gọi là Hoang, con của Hòe
|-
| Thái Khang, Trung Khang || [[Châm Tầm (đô thành)|Châm Tầm]]{{NoteTag|name=斟鄩}} || có thuyết nói rằng nay là di chỉ Nhị Lý Đầu cách 18 km về phía đông khu [[Lão Thành]], Lạc Dương, Hà Nam<br />có thuyết nói rằng nay thuộc thôn Sảo Sài, trấn Chi Điền cách 29 km về phía tây nam [[Củng Nghĩa]], Hà Nam{{RefTag|name=晁福林}}{{RefTag|name=简明中国历史地图集}}
| 10
| 16
| 泄
| class = "lft" | [[Hạ Tiết|Tiết]]
| cũng gọi là Thế, con của Hòe
|-
| rowspan=2 | Tướng || Đế Khâu{{NoteTag|name=商丘|1=còn viết là "Thương Khâu"}} || tương truyền nay là tây nam [[Bộc Dương]], Hà Nam{{RefTag|name=简明中国历史地图集}}
| 11
| 58
| 不降
| class = "lft" | [[Bất Giáng]]
| con của Tiết
|-
| Châm Tầm || -
| 12
| 20
| 扃
| class = "lft" | [[Hạ Quýnh|Quýnh]]<ref>Cũng có tài liệu chép là Biển</ref>
| cũng gọi là Cục hay Ngu, con của Tiết, em của Bất Giáng
|-
| Nghệ || Tư{{NoteTag|name=鉏}} || có thuyết cho rằng nay thuộc huyện [[Hoạt (huyện)|Hoạt]], Hà Nam{{RefTag|name=中国早期国家性质}}
| 13
| 20
| 廑
| class = "lft" | [[Hạ Cần|Cần]]
| Quốc ngữ: jìn, Phổ Thông thoại: jǐn, con của Quýnh
|-
| Nghệ, Hàn Trác || Cùng Thạch || tương truyền nay thuộc nam bộ Lạc Dương, Hà Nam{{RefTag|name=史记地名考}}
| 14
| 30
| 孔甲
| class = "lft" | [[Khổng Giáp]]
| con của Quýnh
|-
| rowspan=3 | Thiếu Khang || Luân{{NoteTag|name=纶邑}} || tương truyền nay thuộc tây bộ huyện [[Ngu Thành]], Hà Nam{{RefTag|name=夏源流史}}
| 15
| 11
| 皋
| class = "lft" | [[Hạ Cao|Cao]]
| cũng gọi là Cao Câu, con của Khổng Giáp
|-
| Hạ Ấp || tương truyền nay thuộc huyện [[Hạ Ấp]], Hà Nam{{RefTag|name=夏源流史}}
| 16
| 11
| 發
| class = "lft" | [[Hạ Phát|Phát]]
| cũng gọi là Phát Huệ, con của Cao
|-
| Đế Khâu || -
| 17
| 52
| 桀
| class = "lft" | [[Hạ Kiệt|Kiệt]]
| cũng gọi là Lý Quý (履癸)
|-
| Trữ || Nguyên || có thuyết cho rằng nay là Miếu Nhai Nguyên Thành cách 2km về phía tây bắc [[Tế Nguyên]], Hà Nam{{RefTag|name=晁福林}}{{RefTag|name=简明中国历史地图集}}
| style="background:#efefef" colspan="5" | <small>'''1''' Tên vua cai trị thỉnh thoảng được đặt sau tên triều đại, Hạ (夏), ví dụ Hạ Vũ (夏禹).</small>
|-
| Trữ, Hòe, Mang, Tiết, Bất Giáng, Quýnh || Lão Khâu || tương truyền nay thuộc trấn Trần Lưu, huyện [[Khai Phong (huyện)|Khai Phong]], Hà Nam{{RefTag|name=简明中国历史地图集}}
| colspan="5" style="background:#efefef" |<small>'''2''' Thời gian cai trị phỏng đoán, theo năm.</small>
|-
| Cần, Khổng Giáp, Cao, Phát || Tây Hà || có thuyết cho rằng nay thuộc đông nam [[An Dương (địa cấp thị)|An Dương]], Hà Nam{{RefTag|name=简明中国历史地图集}}
|-
| rowspan=2 | Kiệt || Châm Tầm || -
|-
| Hà Nam || có thuyết cho rằng nay là di chỉ Nhị Lý Đầu{{RefTag|name=晁福林}}{{RefTag|name=简明中国历史地图集}}
|}
 
=== CácBộ chưlạc hầuphương hậu duệquốc ===
{{Toàn đồ thời kỳ Hạ}}
Theo [[Sử ký Tư Mã Thiên]], các vua Hạ mang họ Tự, hậu duệ được phong thêm ở các nước chư hầu đã lấy nước làm họ, gồm có (những nước ''chữ nghiêng'' đã bị diệt trong chiến tranh với [[Hậu Nghệ]] và [[Hàn Trác]]):
* Hạ Hậu thị
* Hữu Nam thị
* [[Châm Tầm]] thị
* Bao thị
* [[Hữu Hộ]] thị
* Phí thị
* Kỷ thị
* Tăng thị
* Tân thị
* ''Minh'' thị
* [[Châm Quán]] thị
 
[[Phương quốc]] là quốc gia quy mô nhỏ được chuyển hóa hình thành từ thị tộc bộ lạc nguyên thủy. Các bang quốc này nằm bên ngoài cương giới, không chịu sự quản lý trực tiếp của Hạ hậu. Một số phương quốc chỉ là bộ tộc lớn, song có một số phương quốc khá lớn, thiết lập nên tổ chức quốc gia, quy mô thậm chí còn lớn hơn Hạ hậu thị{{RefTag|1={{Cite journal|title=“中国夏商王国文明与方国文明试论”|author=佟柱臣|journal=《考古》|year=1991年|issue=第11期|publisher=中国社会科学院考古研究所考古杂志社|location=中国北京|language=Trung văn giản thể}}}} Hữu Cùng thị từng có một thời gian thay thế cầm quyền, Thiếu Khang từng chạy đến Hữu Nhưng thị, Hữu Ngu thị, giữ các chức mục chính và bào chính.
== Xem thêm ==
* [[Tam Hoàng Ngũ Đế]]
* [[Nhà Thương]]
* [[Hậu Nghệ]]
* [[Hàn Trác]]
 
[[Hữu Nhưng|Hữu Nhưng thị]] còn có tên là Hữu Nhâm thị, mang họ Phong, cư trú bên bờ [[hồ Vi Sơn]]{{NoteTag|1=tương truyền nay là khu Nhâm Thành, Tế Ninh, Sơn Đông.}} ở Sơn Đông, là hậu duệ của Thái Hạo, Thiếu Hạo. Giữa Hữu Nhưng thị và Hạ hậu thị có qua lại mật thiết, có hiện tượng thông hôn, trong đó thê của Tướng là Mân đến từ Hữu Nhưng thị. Khi Tướng bị Hàn Trác sát hại, Mân đang mang thai, bà lánh nạn tại cố hương, sinh hạ Thiếu Khang tại Hữu Nhưng. Sau khi Thiếu Khang phục hưng Hạ thất, phong tộc nhân của Hữu Nhưng ở [[Nhâm (nước)|Nhâm quốc]].
== Tham khảo ==
* ''Sử ký Tư Mã Thiên những điều chưa biết'' - Hạ bản kỷ, Bùi Hạnh Cẩn - Việt Anh dịch (2005), NXB Văn hoá thông tin
* Chu Mục, Trần Thâm chủ biên (2003), ''365 truyện cổ sử chọn lọc Trung Quốc'', tập 1, NXB Thanh niên
* Trình Doãn Thắng, Ngô Trâu Cương, Thái Thành (1998), ''Cố sự Quỳnh Lâm'', NXB Thanh Hoá
 
[[Hữu Ngu|Hữu Ngu thị]] là hậu duệ của Ngu Mạc, Đế [[Thuấn]], họ hoạt động tại lưu vực Phần Thủy cổ tại tây bắc Hà Nam và nam Sơn Tây. Khi Thuấn già, nhận thấy con mình là [[Thương Quân (con Thuấn)|Thương Quân]] không tài không đức, do vậy thiện vị cho Vũ. Lúc trước, Nghiêu truyền vị cho Thuấn, Thuấn sau lại nhượng vị cho con Nghiêu là [[Đan Chu]], Vũ muốn làm theo họ mà nhượng vị cho Thương Quân. Tuy nhiên, do dân chúng ủng hộ Vũ mà không đếm xỉa đến Thương Quân, do vậy Vũ kế thừa đế vị, phân phong cho Thương Quân ở phụ cận [[Ngu Thành]], Hà Nam ngày nay. Bốn đời sau, Hạ thất trung suy, Thiếu Khang chạy đến Hữu Ngu tị nạn, được thủ lĩnh Ngu Tư{{NoteTag|name=伯思}} đại lực hiệp trợ nên mới xoay chuyển được thế cục cho Hạ thất, Hữu Ngu thị có quan hệ trực tiếp đến tồn vong của Hạ hậu thị.
==Chú thích==
{{commonscat|Xia Dynasty}}
{{Tham khảo}}
{{Vua nhà Hạ}}
 
Có thuyết nói họ Yển là hậu duệ của Cao Dao. Khi Vũ già có tiến cử Cao Dao làm người kế thừa, song Cao Dao lại mất trước Vũ, Vũ lại tiến cử Bá Ích. Sau khi Vũ mất, con Vũ là Khải thu phục được sự ủng hộ của dân chúng, Bá Ích mất quyền rồi chiến bại trước Khải và bị giết. Hậu duệ của Cao Dao được phong ở ba đất [[Lục (nước)|Lục]]{{NoteTag|1={{Tiêu âm|繁=六|简=六|拼音=Lù|注音=ㄌㄨˋ|同音字=陆}}。}}, [[Anh (nước chư hầu)|Anh]], [[Hứa (nước)|Hứa]] ở đông nam.{{RefTag|name=夏本纪}}
{{Liên kết bài chất lượng tốt|zh-classical}}
 
[[Hữu Hỗ|Hữu Hỗ thị]]{{NoteTag|name=有扈氏与甘}} là bộ lạc cùng họ với Hạ. Khi Khải đoạt quyền của Ích, Hữu Hỗ thị không phục lấy danh nghĩa "Nghiêu Thuấn chọn người hiền tài còn Vũ thì độc chiếm" mà phản đối Khải thống trị, kết quả chiến bại trong trận chiến Cam, bộ chúng thì bị giáng làm mục nô.
 
Con của Dận là Bá Mĩ nguyên là thủ lĩnh bộ lạc{{NoteTag|1=có thuyết nói là thủ lĩnh Hữu Cách thị.}} thần phục Hạ hậu, khi Thái Khang mất nước thì quy phục Hậu Nghệ, khi Hàn Trác giết Nghệ thì chạy đến Hữu Cách thị.{{NoteTag|name=鬲}} Mĩ biết việc Thiếu Khang chuẩn bị phục hưng Hạ thất thì tổ chức binh dân Hữu Cách và nhị Châm hội sư với Thiếu Khang.
 
[[Châm Quán|Châm Quán thị]]{{NoteTag|1=tương truyền nay thuộc đông nam huyện [[Thanh Phong (huyện)|Thanh Phong]], Hà Nam.}}, [[Châm Tầm (nước)|Châm Tầm thị]]{{NoteTag|1=tương truyền nay thuộc tây nam Củng Nghĩa, Hà Nam.}} được gọi chung là "nhị Châm", cùng mang họ Tự.{{NoteTag|1=“夏同姓诸侯斟鄩氏。”{{RefTag|name=世本|1=《[[世本]]》.}}}} là thị tộc thân Hạ trọng yếu vào tảo kỳ thời Hạ. Trong quá trình Hạ hậu thị thiên di về phía đông nam, với hai thị tộc có sự dung hợp, đến vãn kỳ thời Hạ thì vùng đất của Châm Tầm trở thành đô ấp của Hạ hậu, di chỉ Nhị Lý Đầu tại Yển Sư có khả năng chính là Châm Tầm.{{RefTag|1={{Cite journal|title=“河南偃师二里头遗址为夏都斟鄩及相关问题讨论”|author=方酉生|journal=《二里头遗址与二里头文化研究》|publisher=科学出版社|location=中国北京|year=2006年|month=12月|pages=第29—36页|language=Trung văn giản thể|isbn=7-03-017833-5}}}} Thời kỳ "vô vương", Hàn Trác mệnh con là Kiêu suất binh diệt nhị Châm, đồng thời giết Hạ hậu Tướng đang tị nạn tại Châm Tầm. Thế lực còn lại của nhị Châm một số năm sau gia nhập vào liên quân của Thiếu Khang và Bá Mĩ, phục hưng Hạ thất.{{RefTag|name=襄公四年|1=《左传·襄公四年》.}}
 
Hữu Hôn thị{{NoteTag|name=有缗氏|1={{Tiêu âm|繁=有緡氏|简=有缗氏|拼音=Yǒuhūnshì|注音=ㄧㄡˇ ㄏㄨㄣ ㄕˋ|同音字=友婚式}}。}}{{NoteTag|1=tương truyền nay thuộc đông bắc huyện [[Kim Hương]], Sơn Đông.}} cũng là một chi hậu duệ khác của Thiếu Hạo, là một phương quốc lớn mạnh vào vãn kỳ thời Hạ. Khi Hạ Kiệt triệu tập hội minh tại Hữu Nhưng, thủ lĩnh Hữu Hôn thị do bất mãn với sự thống trị của Kiệt nên định về nước, bị Kiệt diệt trừ.
 
[[Hữu Sân|Hữu Sân thị]]{{NoteTag|1={{Tiêu âm|繁=有莘氏|简=有莘氏|拼音=Yǒushēnshì|注音=ㄧㄡˇ ㄕㄣ ㄕˋ|同音字=友深式}}。}}{{NoteTag|1=địa điểm hiện nay có nhiều thuyết như: huyện [[Y Xuyên]] của Hà Nam, khu [[Tuy Dương, Thương Khâu|Tuy Dương]] của Hà Nam, huyện [[Nội Hoàng]] của Hà Nam, huyện [[Tào (huyện)|Tào]] của Sơn Đông, huyện [[Hợp Dương]] của Thiểm Tây.}} là hậu duệ của Đế Khốc Cao Tân thị. Thời Khải, phong quốc cho Chi Tử. Giao thời Hạ-Thương, dưới sự bang trợ của [[Y Doãn]], Hữu Sân thị và Thương Thang kết minh tại Bắc Bạc{{NoteTag|1=cũng ghi là "Cảnh Bạc".}}, Thang còn cưới phi từ Hữu Sân thị.{{RefTag|name=晁福林}}
 
"Sơn Hải kinh-Hải ngoại tứ kinh" chép rằng ngoại biên Hạ hậu thị có rất nhiều phương quốc mang tên có chữ "quốc", có khả năng chỉ là thần thoại song cũng có khả năng là danh xưng sai lệch của các bộ lạc viễn cổ.{{RefTag|1={{Cite book|title=《山海经研究》|author=张春生|publisher=上海社会科学院出版社|date=2007年10月1日|language=Trung văn giản thể|isbn=9787807450719}}}}。
 
== Ngoại tộc ==
=== Tam Miêu ===
Trong Hán ngữ thời Thượng Cổ, "Miêu" và "Man" đồng âm đồng ý, Tam Miêu và "Nam Man" của hậu thế có thể có cùng nguồn gốc.{{RefTag|name=王玉哲}} "Chiến Quốc sách-Ngụy sách" chép rằng vị trí của Tam Miêu: phía đông Động Đình, phía tây Bành Lễ{{NoteTag|1={{Tiêu âm|繁=彭蠡|简=彭蠡|拼音=Pénglǐ|注音=ㄆㄥˊ ㄌㄧˇ|同音字=鹏李}},}}{{NoteTag|1=không xác định được địa điểm hiện nay, trong "Vũ cống" ghi rằng Bành Lễ nằm ở phía bắc Trường Giang, không phải là tên gọi cổ của [[hồ Bà Dương]].}}, bắc đến Văn Sơn, nam tiếp Hành Sơn.{{NoteTag|name=三苗|1=“khi xưa Tam Miêu sống ở phía trái sóng nước Bành Lên, phía phải làn nước Động Đình, phía nam của Văn Sơn, phía bắc của Hành Sơn.{{RefTag|1=《戰國策·魏策》.}}”. Vị trí hiện nay của “Động Đình”, “Bành Lệ”, “Văn Sơn”, “Hành Sơn” chưa xác định, có khả năng không lớn là [[hồ Động Đình]], [[hồ Bà Dương]], Văn Sơn, Hành Sơn. Vị trí thực tế do vậy không ra khỏi phạm vi hai tỉnh An Huy và Giang Tô hiện nay.{{RefTag|name=王玉哲}}}} Thời kỳ Nghiêu Thuấn, nước lụt tràn ngập, Miêu thừa cơ "nổi loạn" tại Đông Nam, cùng với [[Hoan Đâu]], [[Cộng Công thị|Cộng Công]], và Cổn gọi chung là Thiên hạ "tứ tội". Thuấn phái Vũ đi hàng phục dân Miêu song không đạt được kết quả. Thuấn trong những năm cuối từng tự thân nam chinh, trên đường bệnh mất tại Thương Ngô. Vũ kế tục sự nghiệp chinh Miêu, phát ra lời thệ sư "Vũ thệ", cùng quân Miêu triển khai đại chiến kéo dài trong 70 ngày, chế phục quân Miêu, bình định Tam Miêu.{{RefTag|1=《墨子·兼爱下》、《墨子·非攻下》.}} Từ đó, Tam Miêu suy lạc không dừng, biến mất khỏi vũ đài lịch sử.{{RefTag|1={{Cite book|title=《南蛮源流史》|author=何光岳|publisher=江西教育出版社|year=1988年11月|language=Trung văn giản thể|isbn=7-5392-0382-X}}}}
 
=== Đông Di ===
Người Di sống ở phía đông của Trung Nguyên, cho nên gọi là Đông Di, nổi tiếng về tài cung tên. Tộc Đông Di ban đầu phân bố tại khu vực [[Dịch (huyện)|huyện Dịch]], [[Bảo Định, Hà Bắc|Bảo Định]], Hà Bắc cho đến chân núi phía nam của [[Yên Sơn (núi)|Yên Sơn]], vào thời kỳ Hạ-Thương, họ phân ra làm bốn phần, một chi lưu cư tại trung bộ Hà Bắc, chi phía bắc đi vòng qua [[vịnh Bột Hải]] để đến [[Liêu Đông]] và [[bán đảo Triều Tiên]], chi phía nam qua Sơn Đông nam hạ đến khu vực [[Giang Hoài]], còn chi phía tây trải khắp hai tỉnh Sơn Tây và Hà Nam ở tây bộ [[bình nguyên Hoa Bắc]], xa nhất đến tận Thiểm Tây. Chi phía tây vào tảo kỳ thời Hạ xảy ra mâu thuẫn với Hạ hậu thị, trong giai đoạn từ Thái Khang đến Trữ trở thành mối uy hiếp không nhỏ đối với chính quyền Hạ hậu thị. Hữu Cùng thị là hậu duệ của [[Thiếu Hạo]]{{NoteTag|1=có thuyết cho là họ Yển.}} người Đông Di, nổi lên ở Cùng Tang{{NoteTag|1=tương truyền nay thuộc [[Khúc Phụ]], Sơn Đông}}, sau đó bắc thiên đến Cách{{NoteTag|name=鬲}} ven bờ [[Bột Hải (biển)|Bột Hải]], dần lớn mạnh tại đây. Thời kỳ [[Tam Hoàng Ngũ Đế|Tam Hoàng]], liên minh bộ lạc của Hữu Ngu thị hiệp đồng Thuấn Đế xua đuổi các bộ lạc nghịch minh Đại Phong, Thập Nhật, Cửu Anh, Tạc Xỉ, Phong Hy{{NoteTag|1=còn ghi là "Phong Thỉ".}}, Tu Xà. Đầu thời Hạ, Hữu Cùng thị tây thiên đến Tư, sát gần khu vực trung tâm của Hạ hậu thị. Thời Thái Khang, Hạ thất trung suy, thủ lĩnh Nghệ của Hữu Cùng thị thừa cơ tây tiến. Nghệ dẫn người nam vượt Hoàng Hà, diệt bốn thuộc quốc của Hạ hậu, chiếm cứ vùng chân núi phía bắc của Tung Sơn. Sau đó, Hậu Nghệ đoạt được Hạ đô Châm Tầm, đày Thái Khang ra đông bộ Hà Nam, lập Trung Khang làm quân chủ. Trung Khang mất, con là Tướng được lập, Nghệ bèn thay thế nắm quyền. Tám năm sau, Nghệ bị nghĩa tử Hàn Trác sát hại, Hàn Trác nấu thịt Nghệ và cưỡng bách con Nghệ ăn, con Nghệ không chịu nên cũng bị Hàn Trác sát hại. Hàn Trác lấy thê của Nghệ, sinh ra Ế và Kiêu. Hàn Trác tàn bạo hôn dung, Hạ hậu Thiếu Khang liên hiệp với hàng thần Mĩ của Hữu Cách thị, Hữu Ngu, Hữu Nhưng, Châm Quán, Châm Tầm diệt Ế, Kiêu và Hàn Trác. Tộc nhân của Hữu Cùng thị từ đó rời khỏi khu vực Lạc Hà, dời về phía tây nam.{{RefTag|1={{Cite book|title=《东夷源流史》|author=何光岳|publisher=江西教育出版社|year=1990年8月|language=Trung văn giản thể|isbn=7-5392-0864-3}}}} Phân chi Đông Nam của tộc Đông Di có chín tộc, gọi chung là "Cửu Di". "Trúc thư kỉ niên" ghi rằng vào thời Tướng, "Vu Di đến quy thuận", nhưng thời Thiếu Khang phục quốc chỉ có Phương Di quy phụ, tám tộc còn lại tiếp tục chống lại Hạ tộc. Trong thời gian Trữ tại vị, quân Hạ nhiều lần chiến thắng trước tộc Di, giúp khoách trương thế lực của Hạ hậu đến bờ biển Hoa Đông. Đến thời Hòe, Cửu Di lần lượt quy phụ Hạ hậu, sau đó Di và Hạ hòa hảo.{{RefTag|name=竹書紀年}}
 
=== Thương ===
Thương tộc mang họ Tử, nguyên là Đông Di, thủy tổ là [[Tử Tiết|Tiết]]{{NoteTag|1={{tiêu âm|繁=契|简=契|拼音=Xiè|注音=ㄒㄧㄝˋ|同音字=卸}}.}} do [[Giản Dịch]] thuộc Hữu Tung thị sinh. Tiết là nhân vật sống cùng thời kỳ với Vũ, sống tại hạ du Hoàng Hà, từng hiệp trợ Đại Vũ trị thủy.{{NoteTag|1=“佐禹治水有功。”{{RefTag|1=汉·司马迁,《史记·殷本纪》.}}}} Trải qua năm vị tiên công là [[Chiêu Minh]], [[Tướng Thổ]], [[Xương Nhược]], [[Tào Ngữ]], [[Minh (tiên công tộc Thương)|Minh]], Thương tộc phát triển từ đông bộ Hà Bắc đến bắc bộ Hà Nam. Minh nhậm chức thủy quan của Hạ hậu, mất trong quá trình trị thủy.{{RefTag|1=《国语·鲁语》.}} Trong thời gian con của Minh là [[Vương Hợi]] tại vị, kinh tế Thương tộc đạt đến đỉnh cao mới, [[bốc từ]] ghi rằng Vương Hợi trong một lần tế tự có thể dùng nhiều đến 50 đầu bò. Thủ lĩnh [[Miên Thần]] của Hữu Dịch thị cưỡng bách Vương Hợi giao ra gia súc và nhân khẩu, Vương Hợi cự tuyệt, Miên Thần liền sát hại Vương Hợi và đoạt lấy bò dê.{{RefTag|1=《易经·大壮》.}} Về sau, đệ của Vương Hợi là [[Vương Hằng]] đoạt về bò dê từ trong tay của Miên Thần. Con của Vương Hằng là [[Thượng Giáp Vi]] liên hiệp với Hà Bá thị thảo phạt Hữu Dịch thị, giết Miên Thần. Thương tộc bắt đầu lớn mạnh đồng thời với việc Hữu Cùng thị suy lạc.{{RefTag|name=晁福林}} Thời kỳ [[Chủ Nhâm]], [[Chủ Quý]], thế lực của Thương tộc không ngừng tăng lên, họ tập hợp các thị tộc bộ lạc ở hạ du Hoàng Hà, từng bước một tiến gần đến khu vực Trung Nguyên của Hạ hậu thị. Sau khi [[Thành Thang|Thiên Ất Thang]] kế vị, Thương thu thập nhân tài, dưới sự hiệp đồng của [[Y Doãn]], [[Trọng Hủy]], Nữ Cưu, Nữ Phòng, bắt đầu chinh [[Cát (nước)|Cát]]{{NoteTag|1=tương truyền nay thuộc huyện [[Ninh Lăng]], Hà Nam.{{RefTag|1=顏師古注文,《汉书·地理志》.}}}}, lại trước sau tiêu diệt các thị tộc thân Hạ như Vi, Cố, Côn Ngô, làm suy yếu thế lực của Hạ hậu, "mười một cuộc chiến mà thành vô địch thiên hạ{{RefTag|1=《孟子·滕文公下》.}}". Thang thừa cơ đất Hạ phát sinh hạn tai mà khởi binh tây tiến, triển khai chiến đấu với Hạ Kiệt tại Minh Điều, Kiệt không chặn nổi nên phải chạy đến Nam Sào. Thang xưng vương tại Tây Bạc, Hạ triều hoàn toàn sụp đổ, Thương triều thành lập.{{RefTag|1={{Cite book|title=《商源流史》|author=何光岳|publisher=江西教育出版社|year=1994年11月|language=Trung văn giản thể|isbn=7-5392-1997-1}}}}
 
== Thể chế chính trị ==
Thời Hạ, về mặt xã hội đã xuất hiện một số cơ cấu và chế độ quốc gia mang tính đại biểu. Cơ cấu quốc gia của triều Hạ bắt nguồn trực tiếp từ cơ cấu liên minh bộ lạc, có đặc trưng là{{RefTag|name=中国早期国家性质}}:
 
*Phạm vi quốc gia trực tiếp quản lý chỉ giới hạn trong nội bộ của thị tộc. Vượt ra ngoài bộ lạc Hạ tộc, các thủ lĩnh bộ lạc khác có được quyền quản lý và quyền thống trị tương đối độc lập trên lãnh địa của mình; đối với Hạ hậu, họ sử dụng phương thức thần phục và nạp cống để biểu thị quan hệ tương hỗ.
*Trên phương diện hình thức chính quyền và chế độ quản lý, có hai bản chất lớn là chuyên chế và dân chủ, thể hiện rõ chế độ quốc gia bắt đầu quá độ từ chính thể thị tộc dân chủ hướng đến chính thể quân chủ.
 
Đương thời, tồn tại liên minh phương quốc bộ lạc theo phương pháp lấy vương triều Hạ của Hạ hậu thị làm trung tâm, các phương quốc bộ lạc này đều hình thành dưới chế độ thị tộc phong kiến của Hạ hậu thị, và sau đó duy trì quan hệ không thay đổi với Hạ hậu, đồng thời nhận được sự bảo hộ của Hạ hậu. "[[Thi Kinh]]" trong phần giảng thuật về thời kỳ chiến tranh giữa Thang và Kiệt có nói "Vi, Cố kí phạt, Côn Ngô, Hạ Kiệt"{{RefTag|name=长发|1=《诗经·商頌·長發》.}} cho thấy Thỉ Vi thị{{NoteTag|name=豕韦}} và Cố thị{{NoteTag|name=顾}} hiệp đồng với Côn Ngô thị{{NoteTag|name=昆吾}}, Hạ hậu thị tham dự chiến tranh. Tuy nhiên Hậu Nghệ thuộc Hữu Cùng thị Đông Di có thể "dựa vào dân Hạ để kế thừa Hạ chính"{{RefTag|name=襄公四年}}, qua đó cũng có thể thấy quan hệ thân cận giữa Hữu Cùng thị và Hạ hậu thị. Trong các ghi chép trong văn hiến, nguyên nhân Thái Khang thất quốc và Thiếu Khang phục quốc được quy kết là do Thái Khang, Tướng, Hàn Trác ra ngoài săn bắn thường nhật, không quan tâm đến dân sự. Tuy nhiên vào tiền kỳ Hạ triều, nông nghiệp chưa phát triển, nhiệm vụ săn bắn đều do các cường đinh tráng nam trong nội bộ bộ lạc đảm nhiệm, việc quân chủ săn bắn bên ngoài do vậy là hoạt động sản xuất bình thường, không phải là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến mất quyền mất nước. Vào sơ kỳ Hạ triều tồn tại cảnh tượng tạp cư đan xen giữa Hạ tộc và ngoại tộc, giữa các bầy người xảy ra đấu tranh liên miên. Uy hiếp lớn nhất của Hạ tộc đến từ Di tộc phía đông, hai tộc triển khai chiến tranh hơn 100 năm, đến thời Trữ, Hòe thì mới hạ màn. Thời kỳ "vô vương" kéo dài bốn mươi năm từ khi Thái Khang thất quốc đến Thiếu Khang phục quốc chứng minh rằng Đông Di tộc khi ấy có thế lực cường thịnh, cũng phản ánh cơ sở của chính quyền Hạ hậu không chắc chắn. Nghệ thuộc Di tộc song lại được Hạ dân tán thành, thông qua hình thức xua đuổi Thái Khang mà đoạt được quyền vị Hạ hậu, cho thấy vẫn còn tồn tại đặc trưng dân chủ thiện nhượng của xã hội nguyên thủy "đức suy thì thay thế".{{RefTag|name=王玉哲}}
 
Sau khi Thái Khang thất quốc, Thiếu Khang từng chạy đến chỗ Hữu Ngu thị. Thủ lĩnh Hữu Ngu thị là Ngu Tư{{NoteTag|name=伯思}} gả hai con gái cho Thiếu Khang, lại ban điền ấp cho Thiếu Khang, Thiếu Khang đang lúc khốn nan nay có được một địa vị nhất định. Tuy nhiên, Hữu Ngu thị và Hạ hậu thị không có quan hệ huyết thống trực tiếp, song thủ lĩnh Hữu Ngu thị có vẻ như đại lực ủng hộ Hạ hậu thị, thể hiện rõ rằng bộ lạc thần thuộc Hạ hậu thị bắt đầu chấp thuận sự thống trị "gia thiên hạ" của Hạ hậu thị, thừa nhận rằng sự thống trị của Hạ hậu thị mới là chính thống.{{RefTag|name=中国早期国家性质}}
 
Quốc gia mà chính quyền Hạ hậu kiến lập là một quốc gia phôi thai nguyên thủy, do vậy sức sản xuất ở mức thấp, cơ cấu chính trị không hoàn thiện, hệ thống giao thông lạc hậu, do vậy thế lực của Hạ hậu giới hạn trong khu vực vương kỳ rộng chừng 100 [[lý (đơn vị đo lường)|lý]]. Khu vực ngoài cương giới của Hạ, Hạ hậu chỉ có thể thông qua phương thức kết minh hòa hiếu để duy trì ảnh hưởng của mình. Kiểu cục thế này là đặc trưng quốc gia chung của [[Tam Đại (lịch sử Trung Quốc)|Tam Đại]] thượng cổ là Hạ, Thương và Tây Chu.{{RefTag|name=晁福林}}
 
=== Thể hệ quan chức ===
"Lễ ký-Tế nghĩa" viết rằng "thời xưa, Hữu Ngu thị quý đức và thượng xỉ, Hạ hậu thị quý tước và thượng xỉ", phản ánh người Hạ xem trọng quan vị, cũng qua đây có thể nói chức quan đời Hạ có phân biệt đẳng cấp cao thấp rõ ràng.{{RefTag|1=《礼记·祭义》.}} Trong văn hiến hậu kỳ có chép rằng thời Hạ đã lập chuỗi quan chức lớn nhỏ. Trong "Thượng thư-Cam thệ" có ghi "đại chiến ở Cam, bèn triệu lục khanh, Vương nói: Ôi!{{NoteTag|1={{Tiêu âm|繁=嗟|简=嗟|拼音=jiē|注音=ㄐㄧㄝ|同音字=街}}, âm tự dùng để thể hiện sự than vãn vào thời cổ.}}, lục sự chi nhân, ta thệ cáo ngươi"; còn trong "Mặc tử-Minh quỷ" có viết "tả hữu lục nhân"; lục khanh, lục sự chi nhân, lục nhân có khả năng giống như giống như [[lục khanh]] thời Chu, sáu vị đại quan giúp đỡ Hạ hậu quản lý sự vụ quốc gia.{{RefTag|name=甘誓|1=《尚书·夏书·甘誓》.}} "Lễ ký-Minh đường vị" có nói đến "Hạ hậu thị quan bách" chỉ là quan viên hạ cấp của lục sự chi nhân.{{RefTag|1=《礼记·明堂位》.}} Từ "bách" trong "quan bách" chỉ số nhiều, cũng không phải là số tròn chục, có rất ít ghi chép về chức vị của quan bách.{{RefTag|name=中国法制通史}} Thời Hạ, có nhiều chức quan gọi là "chính", có "mục chính" quản lý việc chăn thả gia súc, bào chính quản lý việc nấu ăn nhà bếp, xa chính chuyên quản lý việc chế tạo xe. Bên dưới quan "chính" còn tồn tại tiểu lại gọi là "công". "Hạ thư" viết "tù nhân dĩ mộc đạc{{NoteTag|1={{Tiêu âm|繁=木鐸|简=木铎|拼音=mùduó|注音=ㄇㄨˋ ㄉㄨㄛˊ|同音字=目夺}}, cái mõ có lưỡi bằng gỗ dùng để tuyên lời dạy, gây chú ý khi tuần hành}} tuẫn vu lộ".{{RefTag|1=《左传·襄公十四年》dẫn từ《尚书·夏书》。{{NoteTag|name=《左传》引文|1=nguyên văn trong "Thượng thư-Hạ thư" không được truyền thế, chỉ có thể dẫn từ Tả truyện.}}}}”, quan viên mà Hạ hậu cho đi tứ xứ tuần chinh thi ca và ý kiến gọi là "tù nhân". "Hạ thư" có viết "Thần bất tập ư phòng{{NoteTag|name=弗|1=còn viết là "Thần phất tập ư phòng"}}{{NoteTag|1=Mặt Trời không xuất hiện hoàn chỉnh trên trời của phòng ốc, tức [[nhật thực]]}}, mậu{{NoteTag|1={{Tiêu âm|繁=瞀|简=瞀|拼音=gǔ|注音=ㄍㄨˇ|同音字=骨}}。}} tấu cổ, [[sắc phu]] trì, [[thứ nhân]] tẩu{{RefTag|name=昭公十七年|1=《左传·昭公十七年》引自《尚书·夏书》。{{NoteTag|name=《左传》引文}}}}", tự thuật về một khoảng thời gian xảy ra [[nhật thực]], có "mậu" quan đánh trống lớn để báo cho mọi người, mỗi quan lại và thứ dân tự chạy vội vàng báo cho nhau. "Tù nhân", "mậu", "sắc phu" đều thuộc tiểu lại cấp "công"{{RefTag|name=中国法制通史}} Hạ hậu có khả năng còn có "quan chiêm"{{NoteTag|1=tức “chiêm quan”, “bốc quan”, danh từ thường thấy trong Hán ngữ thượng cổ, thứ tự từ ngữ đảo ngược khi tính từ đứng sau.}}{{NoteTag|1=“官占,唯能蔽志,昆命于元龟。”{{NoteTag|name=《左传》引文}}{{RefTag|1=《左传·哀公十八年》 dẫn từ 《尚书·夏书》。}}}} chuyên lo việc bói toán bằng mai rùa và cỏ thi (tức bốc thệ). "Mặc Tử-Canh trú" chép rằng Hạ hậu Khải đúc đỉnh ở Côn Ngô, từng thông qua bốc quan dưới quyền là Ông Nan Ất để cầu vấn thiên thần{{NoteTag|1=《墨子·耕柱》,“使翁-{難雉}-乙卜于白若之龟。”古无“-{雉}-”字,应为“-{難}-”字的重写讹化,卜官实名“翁-{難}-乙”。{{RefTag|1={{Cite book|title=《墨子》|author=周才珠、齊瑞端 译注|publisher=台灣書房出版有限公司|year=2000年|language=Trung văn phồn thể|isbn=9789578499522}}}}}}{{RefTag|name=耕柱}} Ngũ phục cống phú từ Cửu châu là nguồn kinh tế chủ yếu của Hạ hậu thị, trong số các "quan bách" của Hạ hậu thị có nhiều người chuyên lo việc trưng thu phú dịch.{{RefTag|name=晁福林}} Trong "Thượng thư-Hạ thư", liên quan đến quá trình thiết quan phân chức về đại lược, có viết "phú nạp dĩ ngôn, minh thí dĩ công, xa phục dĩ dung.{{NoteTag|dịch nghĩa “đầu tiên nghe lời nói của ông ta, quan sát chí hướng của ông ta, tiếp đến là trao cho ông ta nhiệm vụ để khảo nghiệm bản lĩnh và hiệu quả hoàn thành nhiệm vụ của anh ta, cuối cùng cấp cho ông ta xe ngựa, quan phục để định rõ chức vị của ông ta.”}}{{RefTag|name=僖公二十七年|1=《左传·僖公二十七年》.}}
 
=== Chế độ phú nạp ===
[[File:五服图.png|thumb|250px|<center>Hình thể hiện khái niệm Ngũ phục<br />("Khâm định thư kinh đồ thuyết" thời Thanh)</center>]]
Chế độ thị tộc phong kiến thời Hạ cũng có sự thể hiện về mặt kinh tế. Thượng thư viết "Tứ hải hội đồng, lục phủ khổng tu. Thứ thổ giao chính, để thận tài phú, hàm tắc tam nhưỡng thành phú, trung bang tích thổ, tính, chi đài đức tiên, bất cự trẫm hành"{{RefTag|name=禹贡}}, tức nói thị tộc bộ lạc trong tứ hải đều quy phụ Hạ hậu, sáu loại vật chất kim mộc thủy hỏa thổ cốc đều chịu trị lý, phân biệt rõ ràng ruột đất tốt xấu các xứ, đem phân vào ba hạng để quyết định số lượng phú nạp, khiến cho việc phú nạp được hợp lý mà không thiên lệch, việc ban đất, ban họ căn cứ vào quan hệ giữa phương quốc bộ lạc và Hạ hậu mật thiết hay xa cách để định ra thứ tự phong kiến trước sau. Thiên "Vũ cống" cũng liệt ra tình hình cụ thể về vật phẩm mà Cửu châu phú nạp, đem số lượng vật phẩm phân thánh 9 hạng: thượng thượng, trung thượng, hạ thượng, thượng trung, trung trung, hạ tủng, thượng hạ, trung hạ, hạ hạ.{{NoteTag|name=九州九等}} Ngoài ra, còn căn cứ vào cự ly địa lý xa gần so với đô ấp của Hạ hậu thị mà phân ra "Ngũ phụ" điện, hầu, tuy, yêu, hoang{{NoteTag|1=<br />500 lý điện phục: 100 lý phú nạp tổng, 300 lý nạp trất (liềm), 300 lý nạp kiết phục (áo rơm), 400 lý túc (thóc), 500 lý mễ (gạo).<br />500 lý hầu phục: 100 lý thải, 200 lý nam bang, 300 lý chư hầu.<br />500 lý tuy phục: 300 lý quỹ văn giáo, 200 lý phấn vũ vệ.<br />500 lý yêu phục: 300 lý di, 200 lý thái<br />500 lý hoang phục: 300 lý man, 200 lý lưu.{{RefTag|name=禹贡}}}}.
 
*Điện phục gồm các phương quốc bộ lạc có cự ly dưới 500 lý tính từ đô thành của Hạ, là khu vực cung ứng lương thực chủ yếu của đô thành Hạ. Trong 100 lý phú nạp bó lúa, trong 100-200 lý thì phú nạp bông lúa, trong 200-300 lý thì phú nạp hạt lúa nguyên trấu, trong 300-400 lý thì phú nạp gạo thô, trong 400-500 lý thì phú nạp gạo tinh.
*Hầu phục gồm các phương quốc bộ lạc có cự lý từ 500-1000 lý tính từ đô thành của Hạ, là phong địa của thị tộc chư hầu của Hạ hậu thị. Từ 500-600 lý là thải địa{{NoteTag|1={{Tiêu âm|繁=采地|简=采地|拼音=Càidì|注音=ㄘㄞˋ ㄉㄧˋ|同音字=菜地}}。}} (tức phong địa của khanh đại phu), từ 600-700 lý là tiểu quốc của nam tước, từ 700-1000 lý là đại quốc của hầu bá.
*Tuy phục là khu vực có cự ly 1000-1500 lý tính từ đô thành Hạ, là khu vực ven nằm trong phạm vi thế lực của Hạ hậu. Trong ba trăm lý đầu thi hành quản lý văn hóa giáo dục, trong hai trăm lý còn lại tiến hành phát huy vũ lực để phòng vệ.
*Yêu phục là khu vực có cự ly 1500-2000 lý tính từ đô thành Hạ, là khu vực mà Hạ hậu phải thông qua phương pháp kết minh giao thiệp để gia tăng ảnh hưởng. Trong ba trăm lý đầu thì thông qua đồng minh sống chung hòa bình, hai trăm lý còn lại là nơi lưu đày dân Hạ.
*Hoang phục là khu vực có cự ly 2000-2500 lý tính từ đô thành Hạ, là cương vực của dị tộc, chỉ có liên hệ gián tiếp với Hạ hậu thị. Trong ba trăm lý đầu là các dân tộc thiểu số, hai trăm lý ngoài là nơi lưu đày{{RefTag|1={{Cite web|url=http://www.chinactwh.com/wdtsg_show.aspx?Id=84|title=12、大禹的贡献|publisher=中国传统文化网|date=2011-03-06 15:42:51|accessdate=2011-07-03 18:28|language=Trung văn giản thể}}}}.
 
Miêu tả về Cửu đẳng và Ngũ phục là theo cách nhìn của người thời Chu đối với kinh tế phú nạp của triều Hạ, không nhất định là thực tế vào thời Hạ. Như thép, thép cứng không có nhiều khả năng là vật phẩm thời Hạ, tước vị chư hầu thời kỳ Hạ cũng không có cách nào khảo chứng. Tuy nhiên, trong đó phản ảnh một số quan điểm, như Hạ hậu căn cứ đường đi xa gần và tình hình sản xuất các nơi để định ra các sản vật phải nộp khác nhau, có thể đúng là thực tế vào thời Hạ.{{RefTag|name=晁福林}}
 
Luận thuật về chế độ phú nạp của triều Hạ, "[[Mạnh Tử (sách)|Mạnh Tử]]" viết "Hạ hậu thị năm mươi{{NoteTag|name=亩|1=chữ số này là số [[mẫu (đơn vị đo)|mẫu]].}} mà cống, người Ân bảy mươi{{NoteTag|name=亩}} mà trợ, người Chu trăm mẫu mà triệt, kỳ thực đều đánh thuế thập phân"{{RefTag|name=滕文公上|1=《孟子·滕文公上》.}}, ý là chế độ "cống" thời Hạ, "trợ" thời Ân và "triệt" thời Chu thực tế đều buộc dân hộ nộp một phần mười vật phẩm làm ra mỗi năm, và chế độ điền phú Tam Đại Hạ-Thương-Chu một mạch nối tiếp nhau, [[Cố Viêm Vũ]] dựa vào đó mà nhận định "chế độ điền phú từ thời cổ đến nay, thực tế bắt đầu từ Vũ".{{RefTag|1={{Cite book|title=《日知錄·卷七》|author=顾炎武|date=1639年}}}} Chế độ thập phân của triều Chu lấy tổng thu hoạch bình quân trong vài năm của một dân hộ, sau đó thu một số trung dung không đổi làm số lượng thuế phải nộp.{{NoteTag|1=[[Công Tôn Long|Long Tử]] thời [[Chiến Quốc]] có tả "cống giả, số tuế vi trung dĩ vi thường", thực tế là bắt nguồn từ tình hình những năm Chiến Quốc, không phải là nói về tình hình thời Hạ.{{RefTag|name=滕文公上}}{{RefTag|name=晁福林}}}}, với sức sản xuất và sức bức xạ của chính quyền thời Hạ thì vẫn chưa đủ khả năng thi hành chế độ địa tô thực vật như vậy. Mạnh Tử viết chữ "cống", mang nghĩa thể hiện là giữa dân chúng và quý tộc không có yếu tố cưỡng chế quá lớn, mà có khả năng tồn tại tính tự nguyện ở một mức độ nhất định. Chế độ phú cống mang tính chất dân chúng tự chủ này phù hợp với thời Hạ, vốn có sức sản xuất thấp kém và chính quyền của Hạ hậu thị có cơ cấu không hoàn chỉnh, cũng gần gũi với trật tự kinh tế dân chủ của thị tộc bộ lạc nguyên thủy. Vào mạt kỳ triều Hạ, quan hệ giữa Hạ hậu thị và phương quốc bộ lạc xấu đi, Hạ hậu Kiệt thảo phạt tứ xứ, ông tăng số điền phú quy định để sung cho quân phí, tăng thêm gánh nặng cho nhân dân, kích thích tâm lý bất mãn, khiến họ phản lại Hạ hậu mà chạy sang với Thương Thang. Trong lúc chinh Hạ, Thang từng thề trước mọi người "tội Hạ như thế nào? Hạ vương làm hại đến sức của mọi người, chia cắt Hạ ấp, có dân chúng mệt mà chẳng giúp" để trách tội trạng chủ yếu của Kiệt. Ngoài việc cống thập phân, Kiệt còn bắt dân binh chinh dịch, sau đó dân chúng bất mãn nên chọn thái độ bất hợp tác. Nhìn sang chế độ "trợ" thời Ân-Thương, bình dân bách tính ngoài nghĩa vụ sản xuất nông nghiệp còn có trách nhiệm lao dịch với binh dịch là chính, kết quả là Thương tộc có thể động viên binh lực lớn hơn so với Hạ hậu.{{RefTag|name=晁福林}}
 
=== Chế độ hình pháp ===
Văn hiến cổ chép rằng vào thời kỳ Hạ đã có chế độ hình pháp khá hoàn thiện. "Thượng thư-Lã hình" có viết "Mục vương theo Thục hình thời Hạ mà chế ra Lã hình", tức là chỉ việc [[Chu Mục vương]] lấy Thục hình của triều Hạ để chế định chế độ hình pháp của Chu quốc, là tham khảo trọng yếu của "Lã hình". "Thục hình" được viết trong văn bản có nhiều khả năng là một loại{{RefTag|1=《左传·昭公六年》.}}{{RefTag|1=《尚书·吕刑》.}} với "Vũ hình"{{NoteTag|1="Vũ hình" xuất hiện lần đầu trong "Tả truyện-Chiêu công lục niên", [[Túc Hướng]] của Tấn quốc trích dẫn khi phê phán Chú hính thư của [[Tử Sản]] nước Trịnh, có lẽ là người thời Chu nhớ đến Đại Vũ mã đặt tên, song do niên đại xa cách, không thể khảo chứng thời Hạ có thật là có Vũ hình không. Học giả thuộc phái nghi cổ phần nhiều nhận định niên đại thành thư của Vũ hình không có khả năng trước thời Tây Chu.{{RefTag|1={{Cite book|title=《古史辨》|author=顾颉刚、钱玄同等|volume=第一册|year=1926年、1982年|publisher=上海古籍出版社|pages=第62页|language=Trung văn phồn thể}}}}}} trong Tả truyện "Hạ hữu loạn chính, nhi tác Vũ hình"{{NoteTag|1=dịch văn: nhân vì vào thời kỳ Hạ xuất hiện hiện tượng nhân dân vi phạm chính lệnh của Hạ hậu, do vậy Hạ hậu chế định ra hình pháp để khắc chế dân chúng.}} Nhưng Thục hình{{NoteTag|1=Triều Phúc Lâm căn cứ theo chữ "thục" trong "thục hình" mà phỏng đoán có khả năng chỉ việc dùng vật phẩm chuộc đền để thay thế hình pháp thân thể, song cũng không loại trừ khả năng "thục mệnh" (tử hình).{{RefTag|name=晁福林}}}}, Vũ hình có phải là hình pháp vào thời Hạ hay không, nội dung cụ thể ra sao, đến nay vẫn chưa khảo được. Trong Tả truyện có dẫn thuật từ "Hạ thư" về hình pháp thời Hạ "hôn{{NoteTag|1=bản thân làm điều xấu song lại đi vu cáo hãm hại danh dự của người khác}}, mặc{{NoteTag|1=tham lam vô độ, bại hoại đạo làm quan.}}, tặc{{NoteTag|1=sát hại bừa bãi người vô tội.}}, sát"{{RefTag|1=《左传·昭公十四年》 dẫn từ 《尚书·夏书》。}}, nghĩa là người phạm vào ba loại tội hôn, mặc, tặc này thì sẽ bị phán tử hình. [[Thúc Hướng]] nước Tấn gọi loại hình pháp này là "Cao Dao chi hình".{{RefTag|1=晋国《刑书》.}} Tuy quan niệm tử hình đã sản sinh từ thời đại đồ đá mới, song lý quan của Vũ là Cao Dao có khả năng là nhân vật đầu tiên pháp luật hóa tử hình.{{RefTag|name=中国法制通史}} "Hoàn thổ{{NoteTag|1={{Tiêu âm|繁=圜土|简=圜土|拼音=Huántǔ|注音=ㄏㄨㄢˊ ㄊㄨˇ|同音字=环土}}。}}"{{NoteTag|1=“夏后芬三十六年作圜土。”{{RefTag|name=竹書紀年}}}} của Hạ hậu Hòe, nơi Thương Thang bị Hạ kiệt giam giữ là "Hạ đài" chính là nhà giam thời Hạ{{NoteTag|1=“圜土,狱城也。”{{RefTag|1=《周礼·秋官·大司寇》.}}}}, nhà giam được ghi chép sớm nhất trong sách sử Trung Quốc.{{RefTag|name=夏本纪}}{{NoteTag|1=“三王始有狱。”{{RefTag|1=汉·[[應劭]],《[[風俗通義]]》.}}}} Hoàn thổ là một loại nhà giam nguyên thủy, có hình tròn được đào bên dưới lòng đất, trên mặt đất dựng bờ rào vây quanh thổ lao.{{RefTag|name=中国法制通史}} "Đại Vũ mô" viết "giới chi dụng hưu, đổng chi dụng uy, khuyến chi dĩ "Cửu ca", tỉ vật hoại"{{RefTag|1=《尚书·大禹謨》.}}, đánh giá rằng việc Hạ hậu lập ra hình pháp là một loại thủ đoạn trong việc tiến hành trị lý dân chúng.{{RefTag|name=晁福林}}
 
== Chế độ quân sự ==
Do thiếu thốn sử liệu, tình hình cụ thể về chế độ quân sự triều Hạ khó mà khảo chứng được, chỉ có thể rút ra từ sử sách về chiến tranh. Trong "Cam thệ" có chép đến chiến tranh giữa Khải và Hữu Hổ thị, đề cập đến chi tiết Hạ hậu triệu lệnh Lục khanh{{NoteTag|1=“六事之人”。}}{{NoteTag|1=“大战于甘,乃召六卿。”{{RefTag|name=甘誓}}}}, lục khanh là gọi chung tướng lĩnh sáu lộ quân đội,{{NoteTag|1=“天子六军,其将皆命卿也。”{{RefTag|1=《史记·集解》.}}}} mỗi người trong đó lãnh đạo một đội quân, Hạ hậu có quân quyền tối cao, chỉ huy lục khanh, có thể thấy vào thời Hạ đã có chế độ quân quyền tập trung. "Cam thệ" có ghi rằng Hạ hậu ban hành lệnh động viên khi chuẩn bị thảo phạt Hữu Hổ thị, đây là ghi chép quân pháp sớm nhất trong lịch sử Trung Quốc, rằng "tả bất công vu tả, nhữ bất cung mệnh; hữu bất công vu hữu, nhữ bất cung mệnh; ngự phi kì mã chi chính, nhữ bất cung mệnh. Dụng mệnh, thưởng vu tổ; phất dụng mệnh, thưởng vu xã. Dữ tắc nô lục nhữ"{{NoteTag|1=dịch văn: Trong số những người tham gia chiến đấu, nếu sĩ tốt nào ở bên trái chiến xa mà không giỏi dùng cung tên bắn giết kẻ địch, thì họ không có đủ năng lực chấp hành mệnh lệnh; nếu sĩ tốt nào ở bên phải chiến xa mà không giỏi dùng [[mâu|trường mâu]] đâm chết kẻ địch, thì họ không có đủ năng lực chấp hành mệnh lệnh; binh sĩ điều khiển chiến xa nếu không thành thạo kỹ thuật đánh xe, thì họ không có đủ năng lực chấp hành mệnh lệnh. Người nỗ lực thực hiện mệnh lệnh sẽ được ban thưởng trước thần vị tại tổ miếu, người không nỗ lực thực hiện mệnh lệnh sẽ bị xử tử trước thần vị tại tổ miếu.}}{{RefTag|name=甘誓}}”, phản ánh quân pháp vào thời Khải tương đối nghiêm khắc.{{RefTag|name=中国法制通史}}. "[[Tư Mã pháp]]-Thiên tử chi nghĩa ghi "kì, Hạ hậu thị huyền thủ, nhân chi chấp dã. Chương, Hạ hậu thị dĩ nhật nguyệt, thượng minh dã", có vẻ nói đến việc quân đội của Hạ hậu trên chiến trường có người cầm cờ sử dụng cờ đen để chỉ huy, binh tốt dựa vào dấu hiệu hình nhật nguyệt mà nhận biết.{{RefTag|1={{Cite book|title=《中国上古军事史》|author=高锐|publisher=军事科学出版社|date=1995年8月|location=中国北京|pages=第24页|language=Trung văn giản thể|isbn=978-7800218149}}}}
 
Kết hợp các ghi chép trong văn hiến và phát hiện khảo cổ có thể biết rằng thời Hạ có hai loại binh chủng là xa binh và bộ binh, đương thời còn chưa có kị binh. Thời Hạ đã có mã chiến xa làm bằng gỗ, binh sĩ trên xe phân thành tả, hữu, ngự, ngự giả điều khiển chiến xa và chỉ huy tác chiến, còn binh sĩ tả hữu bảo vệ cho ngự giả. Nhưng dựa theo sức sản xuất thời viễn cổ mà nói, việc chế tạo xe ngựa rất hạn chế, chỉ có thể cung ứng cho Hạ hậu hoặc tướng lĩnh chỉ huy thượng cấp sử dụng, xa binh không phải là chủ lực trên chiến trường. Bộ binh là bộ phận tổ thành chủ yếu của quân đội thời Hạ. Đương thời, binh sĩ và nông dân hợp nhất, chưa có quân đội chuyên nghiệp hóa, vào thời bình họ tham gia hoạt động nông nghiệp và súc mục nghiệp như thường, trong thời kỳ chiến tranh thì họ biến thành lực lượng quân sự.{{RefTag|name=中国远古暨三代军事史|1={{Cite book|title=《中国远古暨三代军事史》|author=杨胜勇|publisher=人民出版社|date=1994年1月|language=Trung văn giản thể|isbn=7-01-001348-9}}}} Binh khí thời viễn cổ bắt nguồn từ công cụ lao động sản xuất, đa số công cụ có thể sử dụng cho cả chiến tranh và lao động. Căn cứ vào các di vật khai quật được tại di chỉ văn hóa Nhị Lý Đầu, binh khí thời Hạ chủ yếu làm từ gỗ, đá, xương, ngoài ra sau kỳ thứ ba phát hiện được một ít binh khí bằng đồng thanh. Binh khí làm bằng gỗ chủ yếu là thù, bổng (gậy), cung, song do lõi gỗ dễ mục, số dụng cụ còn lại khá ít. Binh khí làm bằng đá có rất nhiều chủng loại, đại biểu có búa đá, rìu đá, mác đá, cầu đá, đầu mũi tên làm từ đá, đầu mâu làm từ đá. Vỏ trai dùng nhiều trong chế tạo đầu mũi tên, cũng như là vật phụ trợ để tăng cường tính sát thương cho thù gỗ hay gậy gỗ. Từ kỳ thứ ba về sau xuất hiện binh khí bằng đồng thanh, song chỉ là số ít, có khả năng là để Hạ hậu, tướng lĩnh và nhân sĩ thuộc thượng tầng trong xã hội đeo. Ngoài ra, còn có binh khí lễ nghi làm bằng đồng thanh và ngọc thạch, dùng làm vật phẩm tùy táng cho quý tộc.{{RefTag|1={{Cite journal|title=“二里头遗址出土兵器初探”|journal=《江汉考古》|author=郭妍利|issue=第112期|year=2009年|month=3月|location=陕西西安|language=Trung văn giản thể}}}}
 
== Nhân khẩu ==
Nhân khẩu triều Hạ là vấn đề chưa thể xác định, do niên đại xa cách, chỉ có thể thông qua suy tính số học tiến hành nghiên cứu. "[[Hậu Hán thư]]-Quận quốc chí" bổ chú, dẫn từ "Đế vương thế kỷ" của [[Hoàng Phủ Mật]] (215-282) nói rằng: "đến khi Vũ bình thủy thổ, hoàn thành Cửu châu,...,dân khẩu 1.3553.923 người{{RefTag|1=南朝梁·劉昭注解晋·司马彪之《续汉书·郡国志一》引自晋·皇甫谧之《帝王世紀》。}}", song thực tế con số này là do Hoàng Phủ Mật căn cứ vào nhân khẩu thời Tần, Hán, Tây Tấn mà suy tính ngược ra.{{NoteTag|1=số liệu này chi tiết đến hàng đơn vị, song trong văn hiến thời Tiên Tần đều không có ghi chép liên quan đến con số nhân khẩu triều Hạ, hơn nữa số lớn nhất trong bốc từ giá cốt văn Ân Khư phát hiện được là 3 vạn, triều Hạ vốn thiếu những ghi chép về văn tự thì khó có khả năng lớn trong việc tiến hành ghi chép nhân khẩu quy mô lớn như vậy.{{RefTag|name=中国人口史}}}} Học giả hiện đại Tống Trấn Hào căn cứ việc khi Thiếu Khang cát cứ Luân ấp "hữu chúng nhất lữ{{NoteTag|name=哀公元年备注}}" cùng với chủ giải của Đỗ Dự "500 người là một lữ", tiến hành suy tính và nhận định 500 người chỉ là binh số có thể phái đi, cộng thêm người già, phụ nữ, trẻ nhỏ thì Luân Ấp có nhân khẩu 1500-2500 người, là số nhân khẩu một thành ấp hạng trung tiểu thời Hạ{{RefTag|name=夏商社会生活史|1={{Cite book|title=《夏商社会生活史》|author=宋镇豪|publisher=中国社会科学出版社|date=1994年9月|language=Trung văn giản thể|isbn=7-5004-1448-X}}}}. Tuy nhiên, "chúng nhất lữ" chưa hẳn là một đơn vị số lượng chính xác, cũng có thể lý giải là mang ý một quần thể người, chỉ có thể nói rằng vào thời kỳ Thiếu Khang đã có khái niệm về số lượng nhân khẩu nhất định. Do không có văn hiến ghi chép truyền thế đến nay, ngay cả việc thời Hạ đã từng tồn tại chế độ điều tra nhân khẩu, hiện cũng không thể thảo luận. Thống kê nhân khẩu chỉ có ý nghĩa trong giới hạn phạm vi không gian cụ thể, song nay không thể phục nguyên chính xác phạm vi thế lực cụ thể của triều Hạ, do vậy cũng không thể tham khảo nghịch suy.{{RefTag|name=中国人口史|1={{Cite book|title=《中国人口史》|author=葛剑雄|publisher=复旦大学出版社|volume=卷一|date=2002年12月|language=Trung văn giản thể|isbn=7-309-03520-8}}}} "Thượng thư đại truyện- Ngu truyện" giảng thuật là vào thời Thuấn "tám nhà xưa là một lân, ba lân thành một bằng, ba bằng thành một lý năm lý thành một ấp, mười ấp thành một đô, mười đô thành một sư, châu gồm mười hai sư". Vương Dục Dân căn cứ theo ghi chép này, giả sử mỗi nhà có năm khẩu, tính rằng thời Ngu Hạ có 432.000 hộ, 2,16 triệu người.{{RefTag|1={{Cite book|title=《中国人口史》|author=[[王育民]]|publisher=江苏人民出版社|date=1995年11月|language=Trung văn giản thể|isbn=7-214-01580-3}}}} Cuối cùng, dựa theo di chỉ khảo cổ văn hóa Nhị Lý Đầu để suy tính, Tống Trấn Hào thống kê rằng có ba thành ấp có nhiều đến 5000 cư dân, 1 chỗ có 4000-5000 nhân khẩu, 4 chỗ có 3000 nhân khẩu, 9 chỗ có 1.000 hay 2.000 nhân khẩu, 9 chỗ có 500-900 nhân khẩu, 5 chỗ có dưới 300 nhân khẩu. 27 thành ấp dạng mẫu bình quân nhân khẩu 1.000-1800 người, do vậy ước tính tổng nhân khẩu trong khoảng 2,4-2,7 triệu người.{{RefTag|name=夏商社会生活史}}
 
== Xã hội ==
Triều Hạ nằm trong khoảng thời gian manh nha quá độ từ thị tộc bộ lạc đến quân chủ quốc gia, lễ học gia cổ đại xác định triều Hạ là kết thúc của thời kỳ "Đại đồng", bắt đầu thời kỳ "Tiểu khang". Toàn thiên "Lễ ký-Lễ vận" mô tả toàn diện về xã hội "Tiểu khang" bắt đầu từ thời Vũ, thời kỳ Đại đồng "Thiên hạ là của chung, tuyển dụng người hiền năng", song về thời kỳ "Tiểu khang" thì viết rằng "nay đại đạo{{NoteTag|1=xã hội Đại đồng.}} đã ẩn, Thiên hạ là của triều đình", giảng thuật là thời Vũ Khải "công thiên hạ" biến thành "gia thiên hạ"{{NoteTag|1=“Thiên hạ vi gia” bao hàm hai ý: Người trong Thiên hạ đều lấy gia đình mình làm trung tâm, mỗi người lại có thân thích con cái của mình; quân chủ nhìn nhận vạn vật trong thiên hạ là tài sản tư hữu, như vật trong một nhà, người khác chỉ có quyền sử dụng.}}, không truyền cho người tài đức mà truyền cho con. Biến đổi này là bước ngoặt trong quá trình phát triển chính trị xã hội Trung Quốc, nguyên nhân chính là hình thức sản xuất vật chất phát triển nhanh chóng trong xã hội vãn kỳ thời đại đồ đá mới. Trong khi sản lượng vật phẩm dư thừa nhiều lên, thì quyền lợi của quý tộc thị tộc cũng tăng cao, theo sau đó là mâu thuẫn nội bộ thị tộc trở nên mãnh liệt và một thiểu số quý tộc thượng tầng lũng đoạn đối với của cải vật chất. Dưới tình hình này, chế độ thiện nhượng dân chủ trong thị tộc bộ lạc không thể thích ứng với hình thế xã hội mới và bị chế độ quân chủ thế tập thay thế. Chế độ thế tập sản sinh cạnh tranh tranh đoạt quyền lực trong nội bộ thị tộc, bào tộc, cuối cùng xuất hiện vấn đề quân sự.{{RefTag|name=晁福林}} Tình hình này ngay từ thời kỳ Thuấn Vũ đã cấu thành vấn đề, vì vậy Vũ mới có thể phá lệ thiện vị cho con.{{NoteTag|1="Mạnh Tử" ghi “(Đại đồng xã hội) đến thời Vũ thì đức suy, không truyền cho người hiền mà truyền cho con{{RefTag|1=《孟子·万章上》.}}.”}} Hoặc nói là Vũ trước tiên muốn nhượng cho Cao Dao tuổi đã cao, rồi lại nhượng cho Ích song người này không được lòng người, đối với việc này người thời Chiến Quốc nói rằng Vũ bề ngoài là truyền Thiên hạ cho Ích, song kỳ thực lệnh cho Khải tự đoạt lấy.{{RefTag|1=《戰國策·燕策一》.}}
 
"Lễ ký-Đàn cung hạ" nói rằng "tích giả Hữu Ngu thị quý đức nhi thượng xỉ{{NoteTag|1=“thượng xỉ”, người tuổi cao đáng kính}} Hạ hậu thị quý tước{{NoteTag|1=“quý tước”, người được xem trọng có địa vị trong xã hội. "Lễ ký" do người thời Chu soạn, thời Hạ còn chưa có tước vị.}} nhi thượng xỉ, [[nhà Thương|Ân nhân]] quý phú nhi thượng xỉ; lại nói rằng "Hạ hậu thị vị thi kính{{NoteTag|1=“thi kính”, do tôn kính mà thực thi lế nghi.}} vu dân nhi dân kính chi". Trước thời Hạ, thời kỳ Thuấn thực hành chế độ thiện vị, quân chủ dựa theo phẩm hạnh mà thoái nhượng, coi trọng đức tính của người kế tục. Đến thời kỳ nhà Thương, sức sản xuất được nâng cao đáng kể, các hộ gia đình có sản phẩm dư thừa, nhân dân bắt đầu xem trọng việc tích lũy của cải. Thời Hạ thuộc giai đoạn quá độ giữa xã hội thị tộc nguyên thủy và xã hội phong kiến thế tập, hình thành quan niệm đẳng cấp, giá trị của con người dần được định vị dựa theo đẳng cấp của họ trong xã hội, sự khác biệt đẳng cấp này được truyền cho nhau theo phương thức thế tập cha chết con nối, anh chết em kế tục. Một cá nhân trong xã hội được đãi ngộ theo lễ tiết, căn cứ theo đẳng cấp xã hội của họ chứ không phải theo đức tính phẩm cách của họ. Triều Hạ nằm ở giai đoạn quá độ giữa hậu kỳ của thời đại đồ đá mới và thời đại đồng thanh, về sinh hoạt xã hội thì kỹ thuật sản xuất được nâng cao, thực hiện trung ương tập quyền đồng thời có sự biến hóa về chất.{{RefTag|name=晁福林}}
 
== Kinh tế ==
=== Nông nghiệp ===
Vào thời Hạ, văn minh nông nghiệp có sự phát triển khá lớn. "Luận ngữ-Thái bá" ghi rằng "Vũ tận lực vào ngòi lạch", biến thủy tai thành thủy lợi, phục vụ trồng cấy. Kỳ thực việc ứng dụng kỹ thuật thủy lợi là do nhân dân lưu vực Hoàng Hà trong quá trình lao động thực tiễn dần tích lũy được, không phải chỉ do Đại Vũ tiến hành{{RefTag|name=王玉哲}} Theo truyền thuyết, đại thần của Vũ là Nghi Địch bắt đầu cất rượu, Hạ hậu Thiếu Khang cũng phát minh ra phương pháp cất rượu nếp. Vào hậu kỳ thời đại đồ đá mới, [[văn hóa Long Sơn]] thuộc văn hóa Trung Nguyên đã có tập quán cất rượu, đến thời Hạ khi mà sức sản xuất cao hơn thì cất rượu ngon, uống rượu ngon trở thành một cách để tượng trưng cho quyền lực và tài lực.{{RefTag|1={{Cite book|title=《中国古代的酒与钦酒》|author=刘军、莫福山、吴雅芝|publisher=商务印书馆|date=1995年6月|location=中国北京|language=Trung văn giản thể|isbn=7-80103-020-6}}}} Trong văn hiến cổ có ghi chép đến các truyền thuyết "Đỗ Khang làm rượu"{{RefTag|1=《尚书·酒诰》.}}, "Nghi Địch làm rượu"{{RefTag|1=《[[吕氏春秋]]·勿躬》卷十七.}}, "Thái Khang làm rượu nếp", "Thiếu Khang làm rượu nếp"{{RefTag|1=《世本·作篇》.}}, chúng là những bằng chứng về tầm quan trọng của rượu trong thời kỳ này. Thời kỳ Hạ-Thương-Tây Chu, rượu đều cất từ lương thực và có số độ không cao, cũng không nồng mạnh. Trong "Lễ ký-Ngọc tảo" có chép rằng cổ nhân uống ba chén ([[túc]]) rượu xong thì đầu óc vẫn tỉnh táo.{{NoteTag|1=“君子之饮酒也,受一爵而色酒如也。二爵而言言斯,礼已。三爵而油油。”{{RefTag|1=《礼记·玉藻》.}}}} Để đáp ứng yêu cầu sản xuất nông nghiệp, người ta khám phá ra quy luật các mùa của nông sự, loại nông lịch vẫn được lưu hành đến nay từng được gọi là Hạ lịch- có khả năng được biên thành vào thời Hạ. Súc mục nghiệp có sự phát triển nhất định, còn có một số thị tộc bộ lạc chuyên môn chăn nuôi, như Hữu Hỗ thị sau khi thua Hạ hậu trong trận chiến tại Cam bị biếm làm mục nô làm việc chăn nuôi. Thức ăn chủ yếu của thứ dân Tam đại là cháo, cơm nấu từ các loại hạt. Đem các loại kê, gạo nấu thành cháo loãng, cháo đặc dùng để ăn, xã hội thượng tầng thì ăn nhiều cơm, có khi còn ăn rau xanh. Chỉ khi cử hành hoạt động tế tự quy mô lớn thì mới giết thịt gia súc để tế, thịt cúng đặt ở trong chiếc đỉnh trữ dưới lòng đất.{{RefTag|1={{Cite book|title=《中国饮食史》|author=徐海荣|publisher=华夏出版社|date=1999年10月1日|language=Trung văn giản thể|isbn=7-5080-1958-X}}}}{{RefTag|1={{Cite book|title=《中国古代饮食文化》|author=林乃桑|publisher=中共中央党校出版社|date=1991年11月|language=Trung văn giản thể|isbn=7-5035-0484-6}}}}{{RefTag|1={{Cite book|title=《中国饮食》|author=刘军茹|publisher=五洲传播出版社|date=2004年12月1日|language=Trung văn giản thể|isbn=7-5085-0541-7}}}} Tại nhiều điểm di chỉ văn hóa Nhị Lý Đầu phát hiện được các mẫu vật vỏ kê, vỏ thóc.{{RefTag|name=大百科}}
 
=== Thủ công nghiệp ===
"Khảo công ký" có viết rằng "Hạ hậu thị thượng tượng", thể hiện rằng Hạ hậu xem trọng sản xuất thủ công nghiệp. Triều Hạ thành công trong việc đưa văn minh Trung Nguyên từ thời đại đồ đá quá độ sang thời đại đồ đồng. Các đồ vật thời đại đồ đá mới như đồ đá tinh xảo, đồ xương sừng, đồ vỏ trai dần bị đồ gốm, đồ sơn mài, đồ ngọc thạch, đồ ngọc lam, đồ đồng, đồ đồng thanh thay thế. Tương truyền, vào thời kỳ Nghiêu Thuấn đã sử dụng đồ sơn, sang thời kỳ Hạ Vũ được sử dụng làm đồ tế, "mặc nhiễm kỳ ngoại, nhi chu họa kỳ nội".{{RefTag|1=《韩非子·十过》.}} Thời kỳ viễn cổ, nhân dân sử dụng rộng rãi đồ gỗ và sơn, song đồ làm bằng gỗ dễ dàng bị mục, không dễ bảo tồn, hiện nay khai quật được khá ít. Tại di chỉ Nhị Lý Đầu khai quật được một cái bàn nhỏ được sơn, lớp gỗ đều đã mục nát, song vẫn có thể phân tích ra hình dạng. Từ việc nghiên cứu hình dạng, phát hiện ra có nhiều loại như ống sơn, trống sơn, bát sơn, hộp sơn đáy bằng, hay quan tài sơn. Chế tạo đồ ngọc thạch thời Hạ đã có trình độ tương đối, "Tả truyện" viết rằng vào thời Chu sơ phân phong [[Lỗ quốc]] công [[Lỗ Bá Cầm|Bá Cầm]], ban cho bảo ngọc truyền thế, "Hạ hậu thị chi hoàng{{NoteTag|1=[[Đỗ Dự]] thời Tây Tấn chú giải: “hoàng là tên chỉ ngọc đẹp”; Khổng Dĩnh Đạt thời Đường giải thích: "Hạ hậu thị có vận quý, truyền qua các đời, thấy ngọc đẹp mà đặt tên như vậy.”}}"{{RefTag|1=《左传·定公四年》.}} Tại di chỉ Nhị Lý Đầu khai quật được nhiều loại đồ ngọc như [[qua (vũ khí)|qua]] ngọc, đao ngọc, khuê ngọc, tông ngọc, bản ngọc, việt ngọc. Các loại đồ ngọc này dùng làm vật phẩm trang trí trong lễ nghi, không phải là công cụ dùng trong thực tiễn. Trong số văn vật khai quật thuộc kỳ thứ ba của văn hóa Nhị Lý Đầu có binh khí làm bằng đồng thanh sớm nhất của Trung Quốc, ứng với ghi chép "Vũ huyệt chi thời, dĩ đồng vi binh".{{RefTag|1=《越绝书·卷十一》.}} Có nhiều chủng loại đồ đồng như qua, đao, đục, chùy, móc câu. Ngoài ra, còn phát hiện vết tích của việc chế tạo đồ đồng như than gỗ, vụn đồng đỏ, mảnh khuôn đúc, mảnh nồi nấu.{{RefTag|name=中国法制通史}}
 
Vào thời kỳ đồ đá mới, nghề xe sợi dệt vải có tiến bộ, xuất hiện [[khung cửi]] nguyên thủy, nguyên liệu xe sợi dệt vải trong xã hội hạ tầng phần nhiều là từ sắn dây, đay, còn trong xã hội thường tầng thì dùng nhiều lông{{NoteTag|1=lông cừu là chính{{RefTag|name=张书光}}}}, da, đương thời đã có tập quán nhuộm y phục.{{RefTag|1={{Cite book|title=《中国古代的平民服装》|author=高春明|publisher=商务印书馆|date=1997年3月|language=Trung văn giản thể|isbn=7-80103-083-4}}}}{{RefTag|name=张书光|1={{Cite book|title=中国历代服装资料|author=张书光|publisher=安徽美术出版社|date=1990年8月|pages=第9—10页|language=Trung văn giản thể|isbn=7-5398-0141-7}}}} Mặc dù đến nay vẫn chưa phát hiện ra chứng cứ khảo cổ chứng tỏ văn hóa Nhị Lý Đầu sử dụng lụa, song đã có phát hiện khảo cổ liên quan trong [[văn hóa Long Sơn]], [[văn hóa Đại Vấn Khẩu]], [[văn hóa Lương Chử]] có niên đại sớm hơn{{RefTag|1={{Cite journal|title=“我国栽桑育蚕起始时代初探”|author=卫斯|journal=《农史研究》|publisher=农业出版社|year=1985年|issue=第六辑|language=Trung văn giản thể}}}}, kết hợp với ghi chép trong "Hạ tiểu chính" là "tam nguyệt, ... nhiếp tang. Tang nhiếp nhi ký chi, cấp tang dã. ...thiếp, tử thủy tàm{{RefTag|name=夏小正|1=《大戴礼记·夏小正》.}}, thì việc người Hạ từng sử dụng sản phẩm tơ lụa cũng có tình có lý.{{RefTag|name=中国美术史|1={{Cite book|title=《中国美术史·夏商周卷》|author=李松|publisher=齐鲁书社、明天出版社|date=2000年12月|location=中国济南|language=Trung văn phồn thể|isbn=7-5333-0470-5}}}}
 
=== Thương nghiệp ===
"Diêm thiết luận" có viết rằng "Hạ hậu dùng sò đen"{{RefTag|1=《盐铁论·错币第四》.}}, cho thấy người thời Hán nhận định triều Hạ dùng tiền vỏ sò. Nhiều nền văn hóa viễn cổ trên thế giới dùng vỏ sò vỏ trai trong thiên nhiên làm tiền tệ, tiền đề của việc này là phải đủ về số lượng, đồng thời có thể cung ứng vỏ sò biển trong một thời gian dài. Tuy nhiên, Hạ hậu thị là văn minh sông nước, phạm vi thế lực chỉ giới hạn trong trung hạ du Hoàng Hà, đến trung vãn kỳ mới khoách trương đến bờ Hoàng Hải, trước đó Hạ hậu thị từng đối địch một thời gian dài với tộc Di ở phía đông, không có nhiều khả năng dự trữ được nhiều vỏ sò vỏ trai. Thương nghiệp giao dịch vào thời Hạ có khả năng thông qua hạt lương thực và gia súc còn sống để hoàn thành. Tại di chỉ Nhị Lý Đầu phát hiện vỏ sò thiên nhiên và nhân tạo, chúng có khả năng đảm đương nhiệm vụ tiền tệ.{{RefTag|name=中国法制通史}}
 
== Giao thông và kiến thiết ==
Trong quá trình trị thủy, Đại Vũ mở núi thông sông, có tác dụng lớn đối với sự phát triển giao thông đường thủy và đường bộ thời cổ đại. "Sử ký-Hạ bản kỷ" có viết thời Vũ trị thủy "đi đường bộ ngồi xe, đi đường thủy ngồi thuyền{{NoteTag|1=còn viết là "chu"{{RefTag|name=大禹三考|1={{Cite journal|title=“大禹三考”|author=冯广宏|publisher=四川省水利研究所|journal=《四川文物》|language=Trung văn giản thể}}}}, cũng có nghĩa là thuyền đò.}}, đi qua bùn{{NoteTag|1=còn viết là "qua đầm".{{RefTag|name=大禹三考}}}} dùng khiêu (橇){{NoteTag|1=còn viết là “毳”、“輴”、“[[File:䡅-繁體字.png|15px]]”, “[[File:艹絕-繁體字.png|15px|]]”。{{RefTag|name=大禹三考}}}}, qua núi dùng cúc (檋){{NoteTag|1=còn viết là khiêu “桥”, cục “梮”, lũy “樏”, luy “蔂”.{{RefTag|name=大禹三考}}}}{{NoteTag|1=còn có “vượt bãi cát dùng cưu 鸠”.{{RefTag|name=大禹三考}}}}, ... để mở mang cửu châu, thông cửu đạo, vượt cửu trạch, qua cửu sơn, ... khi đem đồ cống tương ứng từ địa phương, đến chỗ sông núi thì có tiện lợi{{RefTag|name=夏本纪}}" thể hiện khi Đại Vũ trị thủy thì việc thông hành hết sức bất tiện, Đại Vũ lợi dụng các công cụ giao thông như xe, thuyền, khiêu để vượt sông suối bùn cát. Ông suất lĩnh quần chúng xây đắp đường bộ liên thông cửu châu, hỗ trợ việc thực thi chế độ cống nạp, cũng tạo điều kiện cho giao lưu kinh tế giữa các nơi.{{RefTag|1={{Cite book|title=《中国古代道路交通史》|author=中国公路交通史编审委员会|publisher=人民交通出版社|date=1994年1月|pages=第3—7页|language=Trung văn giản thể|isbn=7-114-01733-2}}}} Khu vực giao thông của Hạ hậu chiều đông tây ít là 500-600 lý, chiều nam-bắc ít là 300-400 lý.{{RefTag|name=中国交通史}} "Quốc ngữ-Chu ngữ" có chép "Hạ ra lệnh nói rằng tháng 9 mở đường, tháng 10 xong cầu{{RefTag|name=周语}}", tháng 9 nông lịch là sau mùa mưa, sửa sang đường bộ, tháng 10 nông lịch là sang mùa đông khô hạn thì xây cầu.
 
Di chỉ Nhị Lý Đầu tại Yển Sư có quy mô lớn chưa từng thấy trong lưu vực Hoàng Hà thời viễn cổ, trong văn hóa khảo cổ cùng thời kỳ cũng không có.{{RefTag|name=郑杰祥}} Tại trung tâm địa lý của khu vực văn hóa Nhị Lý Đầu có thể là một tòa đô ấp hoặc thành thị lớn thời Hạ.{{RefTag|1={{Cite journal|title=“夏商周三代城市聚落研究”|author=徐良高|journal=《三代考古》|publisher=科学出版社|date=2004年9月|location=中国北京|volume=第一册|pages=第38—39页|language=Trung văn giản thể|isbn=7-03-014010-9}}}} Đã xác nhận có hai tòa cung điện số 1 và 2, riêng tại tường phía bắc của cung điện số 2 còn có nền móng số 6 có kích thước đồng đẳng thuộc kỳ thứ 4. Hai quần thể kiến trúc này thể hiện bố cục trục tuyến giữa.{{RefTag|name=中国美术史}}{{RefTag|name=最早的中国|1={{Cite book|title=《最早的中国》|author=许宏|publisher=科学出版社|date=2009年8月|location=中国北京|language=Trung văn giản thể|isbn=7208074232}}}} Cung điện số 1 có hình hơi vuông, khuyết một góc đông bắc, chiều đông tây tổng cộng rộng 96,2 mét, chiều nam bắc tổng cộng dài 107 mét, tổng diện tích mặt đất là 9585 m². Điện đường chính nằm ở phía bắc trông về phía nam, mặt rộng 8 gian, vào sâu 3 gian. Bốn phía có tường vách bao quanh, trong có lang vũ hành đạo, tường đông có một phòng bên. Trên trục tuyến giữa hướng về chính nam có cửa lớn mở rộng, phân thành ba môn đạo, mỗi phía bắc và đông có một cửa bên. Cung điện số 2 đông tây rộng 58 m, bắc nam dài 72,8 m, có tường bao quanh bốn mặt và hồi lang ba mặt đông, nam, tây. Cung điện số 1 và 2 đều có đường ống thoát nước làm từ gốm, song hệ thống ở cung điện số 2 được bảo tồn tương đối hoàn chỉnh, đường ống cấu thành từ nhiều phần ống gốm liên tiếp. Mỗi phần có đường kính từ 16,5-22 cm, dài 52-58 cm, dày khoảng 2 cm, đặt trong một rãnh được đào trước sâu 1 mét dưới đất nhằm đề phòng thấm nước. Bản đá dày 5-7 cm được gác phía trên ống gốm, rãnh, nhằm đề phòng người đi tạo sức ép làm vỡ ống gốm. óng gốm có xu thế tây cao đông thấp, thông qua chênh lệch độ cao để đưa nước mưa từ trong cung điện đình viện ra bên ngoài.{{RefTag|name=偃师二里头考古发掘报告|1={{Cite book|title=《偃师二里头1959年~1978年考古发掘报告》|author=[[中国社会科学院]]考古研究所|publisher=中国大百科全书出版社|location=中国北京|year=1999年|language=zh-cn|isbn=7-5000-6197-8}}}} Ngoài khu cung điện có đường đất dọc ngang đan xen, xưởng thủ công, tường thành đất nện.{{RefTag|name=最早的中国}}
 
== Văn hóa ==
=== Nghệ thuật ===
Thời Hạ, xã hội bắt đầu hình thành giai cấp trên dưới, sản phẩm nghệ thuật cũng theo đó mà phân hóa. Đồ vật mà nhân dân hạ tầng sử dụng có tạo hình thực dụng, hoa văn trang trí giản đơn, phát triển theo phương hướng thẩm mỹ chất phác. Lễ khí của quý tộc vương thân thượng tầng có hoa văn trang trí phức tạp, diễn biến phương hướng tạo hình biến hóa đa dạng. Khí cụ dùng để đựng đồ vật của hạ tầng có hoa văn phần nhiều là các dạng hình học, hoặc có hoa văn gia súc, hoa văn cá và một số đề tài khác có liên quan đến sản xuất nông nghiệp. Lễ khí thượng tầng có hoa văn trang trí thường thấy là hình mây sấm phức tạp, hình mắt, hình con rắn, hình mặt thú, đề tài phần nhiều có quan hệ với quỷ thần.{{RefTag|name=偃师二里头考古发掘报告}}{{RefTag|name=中国美术史}} Chế tạo đồ gồm tại văn hóa vãn kỳ Long Sơn và văn hóa tảo kỳ Nhị Lý Đầu có giá trị nghệ thuật tương đối cao. Đồ gốm kỳ thứ hai, thứ ba khai quật từ Nhị Lý Đầu có bề mặt phần nhiều được trang trí bằng các loại hoa văn trang sức như vân màu lam, vân dây, vân hình vuông, đôi khi thấy chạm khắc các loại vân hình móng tay, nét vạch, lông chim, vòng tròn.{{RefTag|name=大百科}} Thời Tam đại chỉ có nghệ thuật trang sức cho các đồ vật thực dụng, thiếu tác phẩm nghệ thuật vì nghệ thuật.{{RefTag|name=中国美术史}}
 
=== Âm nhạc ===
[[File:Erlitou stone qing.jpg|thumb|left|Khánh làm bằng đá khai quật tại huyện Hạ, tỉnh Sơn Đông.]]
 
Trung Quốc vào 9000 năm trước, tức sơ kỳ thời đại đồ đá mới, đã có xuất hiện nhạc khí{{NoteTag|1=ống sáo bằng xương thuộc di chỉ [[Giả Hồ]], trấn Bắc Vũ Độ, huyện [[Vũ Dương (huyện)|Vũ Dương]], Tháp Hà, Hà Nam.}}. Về khởi thủy của âm nhạc tại Trung Quốc, các văn hiến ghi chép khác nhau. "Lã thị Xuân Thu-Cổ nhạc thiên" và "Thượng thư-Ích tắc" ghi rằng vào thời kỳ Đế Khốc, Đế Thuấn đã có nhiều loại nhạc khí, trong đó danh xưng một số loại nhạc khí nói chưa rõ. "Sơn Hải kinh-Đại hoang tây ký" ghi rằng "khai thượng tam tần vu thiên, đắc 'cửu biện' dữ 'cửu ca' dĩ hạ. Thử thiên mục chi dã, cao nhị thiên nhận, khai yên đắc thủy ca 'cửu thiều'", nói lại rằng Hạ hậu Khải cưỡi rồng làm khách Thiên cung, trộm lấy 'cửu ca', 'cửu thiều' 'cửu biện' của Thiên Đế để tự mình hưởng dụng, do vậy mà nhân gian có ca nhạc.{{RefTag|name=音乐考古学|1={{Cite book|title=《中国音乐考古学》|author=王子初|publisher=福建教育出版社|year=2003年|language=Trung văn giản thể|isbn=7533435532}}}} "Lã thị Xuân Thu-Âm sơ" ghi rằng khi Đại Vũ tuần thị đông nam thì gặp gỡ nữ nhi của Đồ Sơn thị, Đồ Sơn thị sáng tác một bài ca "Hậu nhân hề y", đấy là tình ca sớm nhất được ghi chép trong văn hiến, có thuyết cho là khởi điểm của Nam âm thời Hán.{{RefTag|1={{Cite journal|title=“试论南音之始‘候人兮猗’”|author=幸晓峰|journal=《音乐探索》|publisher=[[四川音乐学院]]|year=2001年|issue=第3期|language=Trung văn giản thể}}}} "Chu Lễ-Đại ty nhạc" ghi rằng người thời Hạ vì ca tụng công lạo trị thủy của Đại Vũ nên biểu diễn "Đại Hạ", dùng làm nhạc vũ tế tự núi sông, đến thời Chiến Quốc còn được Lỗ quốc dùng làm vũ nhạc diễn xuất cung đình.{{RefTag|1=Tả truyện·Tương công nhị thập cửu niên.}} "Lễ ký-Tế thống" ghi rằng "bát dật dĩ vũ Hạ", tám người thành một dật, tám dật là 64 người tổ thành đội hình biểu diễn có chiều dọc ngang đều nhau, dựa theo lễ pháp thời Chu thì chỉ có thiên tử triều Chu mới có thể dùng đội hình lớn như vậy{{NoteTag|1=Chu thiên tử ban cho [[Lỗ Khang công|Khang công]] của Lỗ quốc.}}, có thể thấy "Đại Hạ" có đẳng cấp cao. Nhạc khí thời kỳ Hạ được chế tác từ xương, gỗ, đá, da, gốm; chủng loại bao gồm dụng cụ diêu hưởng, hưởng cầu, địch, tiêu, cổ, khánh, chung, linh, huân, sừng hiệu lệnh. So với các nền văn hóa khảo cổ xung quanh, nhạc khí khai quật thuộc văn hóa Nhị Lý Đầu rất thiếu thốn.{{RefTag|name=偃师二里头考古发掘报告}} Năm 1960, tại tầng kỳ thứ ba của di chỉ Nhị Lý Đầu tại Yển Sư đã khai quật được một [[huân]] gốm màu tro, tâm rỗng, hình quả trám, phần đầu có một miệng thổi nhỏ, một bên phần thân giữa có lỗ âm có đường kính 0,4 cm, qua thử nghiệm thì nó có thể phát ra hai âm: la thăng thứ, đô thứ.{{RefTag|name=音乐考古学}} Cũng phát hiện được [[thạch khánh]] làm bằng đá, dài 55,5 cm, cao 28,5 cm, dày 4,8 cm, tạo hình đã tiếp cận khánh lễ làm bằng đồng thanh thời kỳ Thương-Chu.{{RefTag|name=郑杰祥}}
 
=== Văn học ===
Nhân dân thời Hạ chủ yếu sử dụng hình thức văn học truyền miệng trong sáng tác văn học. Đề tài ca dạo và sinh hoạt lao động có liên hệ mật thiết, và thần thoại được sử dụng để giải thích một số sự vật khó hiểu trong thế giới tự nhiên. Tuy nhiên, những văn học truyền khẩu này không được truyền bá đến nay, nên trước khi có thể phát hiện tài liệu văn tự đồng thời kỳ với triều Hạ, thì không thể có nhiều nghiên cứu chuyên sâu về văn học thời Hạ. Có thể gọi nó là thời gian nghệ thuật xưa của văn học nghệ thuật Trung Quốc.{{RefTag|1={{Cite book|title=《中国古代文学史专题》|author=郭丹|publisher=学林出版社|year=2005年|pages=第1页|language=Trung văn giản thể|isbn=7806685006}}}} Người thời Chu súng kính văn hóa triều Hạ, trong tất cả các phương diện đều phỏng theo người thời Hạ mà tạo nên. Trên phương diện ngôn ngữ, người thời Chu nhận định ngôn ngữ thông dụng của triều Hạ là "Hạ ngôn" {{NoteTag|1=Việc Trung Quốc thời cổ có ngôn ngữ nói thông dụng hay không đến nay vẫn là một vấn đề tranh nghị.}} Thời Thượng cổ, "Hạ" 夏, "Nhã" 雅 tương thông, "Hạ ngôn" cũng gọi là "nhã ngôn", là ngôn ngữ được sử dụng trong giao lưu giữa nhân sĩ thuộc thượng tầng xã hội triều Chu, "Thi Kinh" thời Chu chính là sử dụng nhã ngôn để sáng tác{{RefTag|1={{Cite book|title=《中国古代文学史》|author=吴迪|publisher=中国电影出版社|date=1994年11月|location=中国北京|pages=第3页|language=Trung văn giản thể|isbn=7-106-01015-4}}}}
 
=== Kỹ thuật ===
Nghề đúc đồng là thủ công nghiệp mới nổi trọng yếu của triều Hạ. Trong các văn vật thời kỳ thứ nhất và thời kỳ thứ nhì của di chỉ Nhị Lý Đầu, xuất hiện đồ lễ làm bằng ngọc, thể hiện nó có một trình độ văn hóa tương đối. Ngoài ra, nghề làm đồ gốm thời Hạ có khả năng đã trở thành một ngành công nghiệp độc lập rất trọng yếu. Đối với đồ đồng thanh, Trung Quốc đã phát hiện ra dao đồng của văn hóa Nhị Lý Đầu. Nếu như văn hóa Nhị Lý Đầu được xác nhận là văn hóa thời kỳ Hạ, thì đây là đồ đồng thanh của thời kỳ triều Hạ. Công cụ mà người thời Hạ sử dụng được nhận định chủ yếu là đồ đá. "Chu thư" chép rằng vào thời Hạ Kiệt, Côn Ngô thị đem phôi bùn nung thành ngói, cho thấy kiến trúc cuối thời Hạ đã bắt đầu sử dụng ngói.{{RefTag|1={{Cite book|title=《中国建筑史》|author=伊东忠太 著、陈清泉 译|publisher=上海书店|pages=第89页|language=Trung văn phồn thể}}}}。
 
Trong văn hiến thời Tiên Tần có ghi chép về việc quan triều hạ là [[Hề Trọng]] tạo ra xe, viễn tổ [[Tiết (nước)|nước Tiết]] là Hề Trọng được [[Hạ Hậu]] bổ nhiệm làm 'xa chính', quản lý sự vụ chế tạo xe.{{RefTag|1=《左传》杜预 注文、《墨子·非儒下》、《荀子·解蔽》、《吕氏春秋·君守》、《世本·作篇》、《管于》.}} "Sử ký-Hạ bản kỉ" cũng ghi chép rằng trong thời Hạ Vũ trị thủy "đi đường bộ ngồi xe, đi đường thủy ngồi thuyền", cho thấy xe đã xuất hiện ngày từ thời Đại Vũ. "Tả truyện" chép rằng "minh thí dĩ công, xa phục dĩ dung"{{RefTag|name=僖公二十七年}}, rằng Hạ hậu đem xe làm vật thưởng công cho hạ quan. Ngoài ra, "Thế bản" có chép rằng "[[Vương Hợi|Hợi]] tác phục ngưu{{NoteTag|1=xe bò có tê cổ là "đại xa".{{RefTag|name=车与马之关系|1={{Cite journal|title=“中国古代车与马之关系”|author=舒韶雄|journal=《湖北广播电视大学学报》|year=2003年|month=3月|volume=卷二十|issue=第1期|publisher=|location=湖北黄石|language=Trung văn giản thể}}}}}},[[Tướng Thổ]] tác thừa mã{{NoteTag|1=xe ngựa có tên cổ là "tiểu xa".{{RefTag|name=车与马之关系}}}}”{{RefTag|1=《世本·作篇》.}}, và có bốc từ Ân khư làm chứng, chứng minh bộ tộc Thương đồng thời kỳ đã có xe ngựa.{{RefTag|name=中国远古暨三代军事史}}
 
Bè và thuyền độc mộc xuất hiện sớm nhất là vào trung kỳ văn hóa Long Sơn thuộc thời đại đồ đá mới, người Hạ trong một thời gian dài đã cư trú nương nhờ Hoàng Hà, Y Thủy, Lạc Thủy, thuyền bè do vậy trở thành công cụ vượt sông phổ biến. Thời Hạ vào trung hậu kỳ bước vào thời đại đồng thanh, sự xuất hiện của công cụ thuộc kim tạo điều kiện để chế tạo thuyền độc mộc, có thể nói thuyền mộc bản xuất hiện sớm nhất tại Trung Quốc là vào thời Hạ.{{RefTag|1={{Cite book|title=《中国航海史(古代航海史)》|author=[[中国航海学会]]|publisher=人民交通出版社|date=1988年12月|language=Trung văn giản thể|isbn=7-114-00407-9}}}} Tộc Đông Di cư trú ven bờ Hoàng Hải, sở hữu kỹ thuật hàng hải khá cao, đây là lĩnh vực mà Hạ hậu thị với văn minh dòng sông không thể theo kịp. "Luận ngữ-Hiến vấn" chép rằng "Nghệ thiện xạ, [[Hàn Kiêu|Ngạo]]{{NoteTag|1={{Tiêu âm|繁=奡|简=奡|拼音=Ào|注音=ㄠˋ|同音字=傲}}, 异体字:“[[File:奡-异体字.png|15px|“奡”的异体字]]”。}}đãng{{NoteTag|1=熟练操驾舟船,异体字:“荡”。}} chu{{RefTag|name=宪问}}”, Ngạo tức là con của Hàn Trác tên Kiêu{{NoteTag|name=浇}}, rằng ông là một nhân vật giỏi điều khiển thuyền, và lại có chữ "đãng" nên có thể nói đây là một kiểu đi thuyền có mục đích, dùng nhân lực điều khiển khống chế, không phải để trôi dạt như trước. "Vũ cống" nói "triêu tịch nghênh chi, tắc toại hành nhi thượng{{RefTag|name=禹贡}}”, rằng người Hạ biết lợi dụng quy luật thủy triều sáng tối để đi thuyền.
 
=== Thiên văn lịch pháp ===
Người thời Hạ có khả năng đã sở hữu nhiều tri thức về thiên văn, lịch pháp. "Tả truyện-Chiêu công thập thất niên" dẫn từ "Thượng thư-Hạ thư" chép rằng "thần bất tập vu phòng"{{NoteTag|name=弗}}{{RefTag|name=昭公十七年}}, chỉ việc [[Mặt Trời]] không xuất hiện hoàn chỉnh ở phía trên không của ngôi nhà, đây là ghi chép về nhật thực sớm nhất của Trung Quốc được biết đến{{NoteTag|1=Ngoài ra, "Cổ văn thượng thư" ghi chép chi tiết về nhật thực xảy ra ngày Canh Tuất mùng 1 tháng 9 năm Quý Tị Trọng Khang thứ 5, học giả căn cứ vào đó mà suy tính thành nhiều giả thuyết như là ngày 22 tháng 10 năm 2137, hay ngày 7 tháng 5 năm 2165{{RefTag|1={{Cite book|title=《中国古代天文学简史》|author=陈遵妫|publisher=上海人民出版社|year=1955年|pages=第54—55页|language=Trung văn phồn thể}}}}, tuy nhiên những văn hiến ban đầu như "Hán thư-Luật lịch chí", "Tấn thư-Thiên văn chí" đều không ghi về lần nhật thực này, sau này "Cổ văn thượng thư" bị giới học giả phổ biến nhận định là do người thời Tấn làm giả.{{RefTag|name=王玉哲}}}} "Trúc thư kỉ niên" ghi rằng vào năm Hạ Kiệt thứ 15 "Dạ trung tinh vẫn như vũ"{{RefTag|name=竹書紀年}} (trong đêm sao rơi như mưa), là ghi chép sớm nhất về [[mưa sao băng]]. "Thái bình ngự lãm" dẫn "Hiếu kinh câu mệnh quyết" viết "(Vũ thời, ngũ) sao chồng chất như quán châu{{NoteTag|1=chỉ 5 hành tinh kim, thủy, mộc, hỏa, thổ.}}, rõ như liên bích{{NoteTag|1=chỉ nhật, nguyệt.}}。{{RefTag|1=宋·《太平御览·卷七》 dẫn từ《孝经钩命诀》.}}", chép về việc vào sơ kỳ thời Hạ từng xảy ra hiện tượng thiên văn hiếm thấy "ngũ tinh tụ" của [[sao Kim|Kim]], [[sao Mộc|Mộc]], [[sao Thủy|Thủy]], [[sao Hỏa|Hỏa]], [[sao Thổ|Thổ]].{{NoteTag|1=Căn cứ nghiên cứu thiên văn học, lúc gần sáng ngày 23 hoặc 23 tháng 2 năm 1953 TCN, trên đường chân trời phía đông bình nguyên Hoa Bắc, năm hành tinh là Kim, Thủy, Mộc, Hỏa, Thổ xếp thành một hàng, cự ly góc nhìn giữa các hành tinh là dưới 4°, chính là vào sơ kỳ kiến quốc của Hạ hậu thị{{RefTag|name=夏商周断代工程成果报告简本}}. Quỹ đạo hành tinh thay đổi nhiều, thời cổ đại không có điều kiện tính toán "ngũ tinh tụ", do vậy không có nhiều khả năng là người thời Tống làm giả dựa theo nghịch suy. Tuy nhiên, dưới góc độ văn hiến học, những lần hành tinh tụ được ghi chép trong lịch sử Trung Quốc đa phần bắt nguồn từ nhu cầu chính trị, thiên văn học hiện đại khó mà công nhận. Những lần "ngũ tinh hội" dựa theo chính trị tương tự có niên hiệu Thái Sơ thời Hán, Thiên Bảo thời Đường, Càn Đức thời Tống, Thái Tổ thời Nguyên, Gia Tĩnh thời Minh..{{RefTag|1={{Cite journal|title=“关于夏代积年与‘五星聚’”|author=张富祥|journal=《管子学刊》|publisher=山东理工大学齐文化研究院|location=山东淄博张店区|year=2005年|issue=第3期|language=Trung văn giản thể}}}}}} Thời ba vị quân chủ vãn kỳ triều Hạ là Dận Giáp (Cận), Khổng Giáp, Lý Quý (Kiệt), đều lấy thiên can làm tên, cách làm này gần như phương thức mệnh danh của quân chủ triều Thương, nếu quả thực là xưng vị thời Hạ chứ không phải biệt danh người thời Ân-Chu thêm vào, thì có thể nói phép ghi ngày [[Can Chi]] đã xuất hiện vào vãn kỳ triều Hạ{{RefTag|name=大百科}}. Căn cứ "Trúc thư kỉ niên", lúc thay thế Hạ-Thương, có viết về các hiện tượng kỳ dị "hoàng sắc đích thanh oa, hôn ám đích điều dưỡng, tam cá thái dương, thất nguyệt kết sương hòa ngũ cốc điêu linh" (sương mù màu vàng, một mặt trời mờ, sau đó ba mặt trời, sương giá trong tháng bảy, ngũ cốc tàn rụng), có học giả nhận định đó là ghi chép về phun trào núi lửa Minoa tại khu vực nay thuộc [[Hy Lạp]]{{RefTag|1={{Cite journal|author={{Lang|en|Foster, K.P.,Ritner, R.K., Foster, B.R.}}|year=1996|title=“{{Lang|en|Texts, Storms, and the Thera Eruption}}”|journal={{Lang|en|Journal of Near Eastern Studies}}|volume=55|issue=1|pages=1–14|doi=10.1086/373781}}}}。
 
Trong "Luận ngữ", Khổng Tử chủ trương "hành Hạ chi thời"{{RefTag|1=《论语·卫灵公》.}}, đến nay nông lịch truyền thống Trung Quốc còn có biệt danh là "Hạ lịch", dựa theo những dấu tích này có thể nói rằng vào thời Hạ do nhu cầu sản xuất nông nghiệp, kết hợp tri thức thiên văn tích lũy được mà biên thành lịch pháp giản đơn. "Hạ lịch" đều có ghi chép trong các văn hiến thời Tiên Tần như "Thi Kinh", "Tả truyện", "Trúc thư kỉ niên", ít nhất là thông dụng trong nội bộ nước Đường (tức [[Tấn (nước)|nước Tấn]]) thời Chu sơ. "Hạ tiểu chính" nguyên là một thiên của "Đại đái lễ ký", kinh văn này có một bộ phận câu văn giản ước thâm sâu, không như văn phong Đông Chu, chậm nhất là hoàn thành vào tảo kỳ Xuân Thu, là lịch thư sớm nhất của Trung Quốc, có ghi chép giản đơn về vật hậu, khí hậu, tinh tượng các tháng. "Hạ tiểu chính" căn cứ theo sự đầy khuyết của Mặt Trăng mà phân một năm thành 12 tháng, song không có dấu hiệu 5 năm đặt hai tháng nhuận, cũng không phân biệt bốn mùa. Trong ghi chép tháng 5 có "thời hữu dưỡng nhật", trong ghi chép tháng 10 có "thời hữu dưỡng dạ"{{RefTag|name=夏小正}}, "Tả truyện" chú giải "dưỡng giả trường dã", nói rằng tháng 5 của "Hạ tiểu chính" có ngày dài nhất (tức Hạ chí", tháng 10 có đêm tối dài nhất (tức Đông chí), tuy nhiên Đông chí tại bình nguyên Hoa Bắc ứng vào tháng 11 thay vì tháng 10, cho thấy rằng loại lịch pháp này không chuẩn xác, niên đại chế thành tương đối nguyên thủy.{{RefTag|name=王玉哲}}
 
=== Tôn giáo ===
[[File:二里头三期无圹墓骨架.png|thumb|250px|left|Mộ không huyệt thời kỳ thứ 3 tại di chỉ Nhị Lý Đầu, bộ xương có dấu hiệu vùng vẫy khi bị trói, biểu thị khả năng là tế người.]]
Sức sản xuất thời kỳ viễn cổ thấp kém, ngay cả trong điều kiện thời tiết thuận lợi cũng không thể hoàn toàn tránh được nguy hiểm thiếu lương thực. Nhân dân nhận thấy bất lực trước tình hình, tìm cách thông qua lực lượng tự nhiên siêu việt để đạt đến nguyện vọng chi phối tự nhiên nhằm đảm bảo được mùa. Do đó hi sinh người và động vật để làm hài lòng thiên thần, thử lợi dụng hoạt động tế tự nhằm thoát khỏi áp lực của thế giới tự nhiên đối với sinh tồn của nhân loại. Tế người tại lưu vực Hoàng Hà sớm nhất được biết đến là trong [[văn hóa Tề Gia]] tại thượng du, đương thời thường là vợ tuẫn táng theo chồng, sau phát triển thành nô bộc tuẫn táng, cho rằng linh hồn của thê thiếp và nô bộc có thể phục vụ chủ nhân trong thế giới sau khi chết{{RefTag|name=中国全史宗教史|1={{Cite book|title=《百卷本中国全史·远古暨三代宗教史》|author=史仲文、胡晓林 主编|volume=卷五|publisher=人民出版社|year=1994年|language=Trung văn giản thể|isbn=9787010014562}}}}. Văn hóa Nhị Lý Đầu cũng có dấu tích của việc tế người, song quy mô rất nhỏ so với số lượng tế tự hàng trăm người thời Thương. Mộ táng tại di chỉ Nhị Lý Đầu thuộc Yển Sư phân thành hai loại là mộ có huyệt và mộ không có huyệt. Mộ đất một người có huyệt chiếm đa số, người được chôn nằm ngửa và thẳng, hiện tượng bồi táng khá ít{{RefTag|name=偃师二里头考古发掘报告|1={{Cite book|title=《偃师二里头1959年~1978年考古发掘报告》|author=[[中国社会科学院]]考古研究所|publisher=中国大百科全书出版社|location=中国北京|year=1999年|language=Trung văn giản thể|isbn=7-5000-6197-8}}}}. Ngoài ra, còn có một thiểu số là mộ không huyệt, không có đồ tùy táng, đôi khi có mảnh vỡ đồ gốm, thậm chí có khi đồng táng với thú vật, có thể thấy người được chôn có địa vị xã hội thấp kém, khi còn sống có khả năng là tội nhân, tù binh chiến tranh, hoặc nô bộc. Nhiều người được chôn trong mộ không huyệt thể hiện dấu hiệu tử vong không bình thường. Thân thể người được chôn có tư thế cực kỳ không tự nhiên, có các dấu hiệu bị trói trước khi chết như hai tay bắt chéo giơ quá đỉnh đầu, đặt trước ngực, hoặc cong về sau lưng, thậm chí còn có một số sọ bị vỡ, thân và đầu tách rời. Có khả năng là chứng cứ về nhân tế, nhân tuẫn thời kỳ Hạ{{RefTag|name=中国全史宗教史}}. Trừ tế người, tế ruộng, thời Hạ còn có hoạt động tế nhà, xung quanh cung điện số 1 kỳ thứ 3 của di chỉ Nhị Lý Đầu có một số hố tế tự, phát diện xương các loài thú như chó, lợn{{NoteTag|1=Từ Lương Cao căn cứ vào đây dể nghi vấn rằng nền móng số 1, số 2 của di chỉ Nhị Lý Đầu Yển Sư đều không phải kiến trúc cung điện mà là tông miếu, hoặc có thể nói văn hóa Nhị Lý Đầu (văn hóa Hạ) thực hành thế chế tế-chính hợp nhất.{{RefTag|name=徐良高|1={{Cite journal|title=“近年来夏商周考古学研究的主要进展”|author=王巍|journal=《三代考古》|publisher=科学出版社|date=2004年9月|location=中国北京|volume=第一册|pages=第19—20页|language=zh-cn|isbn=7-03-014010-9}}}}}} Còn có năm ngôi mộ táng tại khu sân và hành lang, người được chôn đều tử vong không bình thường, không có vật phẩm tùy táng, huyệt mộ chật hẹp, phá vỡ nền móng cung điện, không xác định được là tế tự dựng móng hay tế tự hoàn thành{{RefTag|1={{Cite journal|title=“二里头遗址宫殿建筑基址初步研究”|author=[[杜金鹏]]|journal=《考古学集刊》|publisher=文物出版社|year=2005年|issue=第16集|language=Trung văn giản thể}}}}。
 
Nhân dân viễn cổ khi nướng thịt thú thì phát hiện hiện tượng xương bị vỡ, tạo thành những vết nứt vỡ với hình dạng khác nhau, có phần khó hiểu, khiến người xưa chú ý. Sau này, khi đạt được kết quả viên mãn trong các hoạt động như săn thú, chiến tranh, mọi người bắt đầu liên hệ hai thứ với nhau, xem đó là điềm trước của thần linh với sự vật, tích lũy thành tri thức gọi là chiêm bốc. Do trình tự phức tạp, tri thức nhiều và sâu, nên trong bộ lạc có vu sư chuyên việc xem bói, độc quyền giải thích bốc cốt. Lưu vực Hoàng Hà trong thời kỳ [[văn hóa Long Sơn]] bắt đầu hưng thịnh chiêm bốc{{RefTag|name=中国全史宗教史}}. "Tả truyện" chép rằng triều Hạ có quan lại chiêm bốc{{RefTag|name=哀公十八年|1=《左传·哀公十八年》 dẫn từ 《尚书·夏书》。{{NoteTag|name=《左传》引文}}}}. Toàn kỳ thứ 4 văn hóa Nhị Lý Đầu đều khai quật được bốc cốt bả vai bò, dê, lợn. Những bốc cốt này chỉ bị đốt cháy ở mặt sau, không đâm không đục, chưa khắc chữ, tương đối nguyên thủy hơn so với [[bốc từ]] Ân Khư{{RefTag|name=偃师二里头考古发掘报告}}。
 
== Danh sách quân chủ ==
{|class="wikitable" style="margin:auto;"
|+ triều Hạ (khoảng [[thế kỷ 21 TCN]] ─ khoảng [[thế kỷ 16 TCN]])
|-
! colspan=5 style="background: #C8D8FF;" | Thời kỳ Tiên Hạ (khoảng [[thế kỷ 21 TCN]]─[[thế kỷ 20 TCN|1990 TCN]])
|-
! style="background: #EFEFEF;" | Danh
! style="background: #EFEFEF;" | Biệt danh
! style="background: #EFEFEF;" | Thời gian tại vị
! style="background: #EFEFEF;" | Số năm tại vị
! style="background: #EFEFEF;" | Đô thành
|-
| rowspan=2 align=center | [[Cổn]] <font size="+2">鲧</font><br />{{NoteTag|1=con của [[Chuyên Húc]]{{NoteTag|name=颛顼五世孙}}}}
| rowspan=2 | Cổn 鮌, Bạch Mã 白馬{{RefTag|1=《山海经•海内经第十八》.}}<br />([[Tung (huyện)|Tung]] bá Cổn)
| rowspan=2 align=center | Không rõ{{NoteTag|name=鲧年代考|1=Nhậm chức Tung bá. [[Trúc thư kỷ niên]] cổ bản không có ghi chép về Cổn. Chiếu theo niên đại thể hệ của [[Lưu Hâm]] thời Tây Hán có thể suy ra niên đại Cổn nhậm chức Sùng bá là năm Nghiêu thứ 31 đến 69 (2314 TCN<sup>Đinh Hợi</sup>—2306 TCN<sup>Ất Mùi</sup>){{RefTag|1=《今本竹書紀年》.}}.}}
| rowspan=2 | 9 năm<br />{{NoteTag|name=鲧年代考}}
| Đại Hạ 大夏
|-
| Tung 崇
|-
| align=center | [[Hạ Vũ|Vũ]] <font size="+2">禹</font>
| Đại Vũ 大禹, Nhung Vũ 戎禹{{RefTag|name=戎禹|汉•[[王符]],《潜夫论•五德志》.}}, Cao Mật 高密, Văn Mệnh 文命<br />(Hạ Vũ 夏禹{{RefTag|name=夏禹|1=《墨子•節用下》.}}, Đế Vũ 帝禹, Tung bá Vũ 崇伯禹, Hạ bá Vũ 夏伯禹)
| align=right | {{NoteTag|1=Nhậm chức Hạ bá.}}[[thế kỷ 21 TCN|2029 TCN]]<sup>Nhâm Thân</sup>—[[thế kỷ 20 TCN|1993 TCN]]
| 37 năm <br />{{NoteTag|name=禹八年|1=“元年壬子帝即位……八年春会诸侯于会稽……秋八月帝陟于会稽。”{{RefTag|name=竹书纪年集解|1={{Cite book|title=《竹书纪年集解》|author=梁沈约|publisher=广益书局|year=1936年|language=Trung văn phồn thể}}}}}}<br />{{NoteTag|name=禹立四十五年|1=“禹立四十五年。”{{RefTag|name=竹书纪年集解}};「《紀年》曰:禹立四十五年。」{{RefTag|name=《太平御覽》卷八二皇王部|1=《太平御览》卷八二皇王部.}}}}
| Cao Mật 高密
|-
! colspan=7 style="background: #C8D8FF;" | Hạ hậu thị ([[thế kỷ 20 TCN|1989 TCN]]─[[thế kỷ 20 TCN|1916 TCN]])
|-
| rowspan=2 align=center | Vũ <font size="+2">禹</font>
| rowspan=2 | Đại Vũ 大禹, Nhung Vũ 戎禹{{RefTag|name=戎禹}}, Cao Mật 高密, Văn Mệnh 文命<br />(Hạ Vũ 夏禹{{RefTag|name=夏禹}}, Đế Vũ 帝禹, Hạ hậu Vũ 夏后禹)
| rowspan=2 align=right | {{NoteTag|1=tức đế vị. [[thế kỷ 20|1992 TCN]]—[[thế kỷ 20 TCN|1990]], ba năm tang kỳ Kỉ Dậu, Canh Tuất, Tân Hợi.}}[[thế kỷ 20 TCN|1989 TCN]]<sup>Nhâm Tý</sup>—[[thế kỷ 20 TCN|1982 TCN]]
| rowspan=2 | 8 năm <br />{{NoteTag|name=禹八年}}<br />{{NoteTag|name=禹立四十五年}}
| Dương Thành 阳城
|-
| rowspan=3 | Dương Trạch 阳翟
|-
| align=center | [[Hạ Khải|Khải]] <font size="+2">启</font>
| Khai 開{{NoteTag|name=启名开|1=Nội dung "Mạnh Tử" hiện nay là do người thời Hán chép lại, người thời Hán khi sao chép cổ tịch đem Khải đổi thành Khai để tránh húy kỵ [[Hán Cảnh Đế]] Lưu Khải.}}<br />(Hạ Khải 夏启, Hạ hậu Khải 夏后启, Hạ hậu Khai 夏后开)
| align=right | {{NoteTag|1=[[thế kỷ 20 TCN|1981 TCN]]—[[thế kỷ 20 TCN|1979 TCN]], ba năm tang kỳ Canh Thân, Tân Dậu, Nhâm Tuất.}}[[thế kỷ 20 TCN|1978 TCN]]<sup>Quý Hợi</sup>—[[thế kỷ 20 TCN|1963 TCN]]
| 16 năm <br />{{NoteTag|1=“十六年陟。”{{RefTag|name=竹书纪年集解}}}}
|-
| rowspan=2 align=center | [[Thái Khang|Khang]] <font size="+2">康</font><br />{{NoteTag|name=康|1=[[Thái Khang]], [[Trung Khang]], [[Thiếu Khang]] đều tên là "Khang", để tránh hỗn hào, hậu nhân chú thêm vào để phân bậc.{{RefTag|name=王玉哲|1={{Cite book|title=《中国断代史系列—中华远古史》|author=王玉哲|publisher=上海人民出版社|date=2000年7月|isbn=7-208-03283-1|language=Trung văn giản thể}}}}}}
| rowspan=2 | Thái Khang 太康{{NoteTag|name=康}}
| rowspan=2 align=right | {{NoteTag|1=[[thế kỷ 20 TCN|1962 TCN]]—[[thế kỷ 20 TCN|1959 TCN]], bốn năm tang kỳ Kỉ Mão, Canh Thìn, Tân Tị, Nhâm Ngọ.}}[[thế kỷ 20 TCN|1958 TCN]]<sup>Quý Mùi</sup>—[[thế kỷ 20 TCN|1955 TCN]]
| rowspan=2 | 4 năm <br />{{NoteTag|1=“四年陟。”{{RefTag|name=竹书纪年集解}}}}
|-
| rowspan=2 | [[Châm Tầm (đô thành)|Châm Tầm]] 斟鄩
|-
| align=center | [[Trung Khang|Khang]] <font size="+2">康</font><br />{{NoteTag|name=康}}<br />{{NoteTag|1=đệ của [[Thái Khang]].}}
| Trung Khang 中康, Trọng Khang 仲康, Trọng Lô 仲盧{{RefTag|name=中華通史|1={{Cite book|title=《中華通史》|volume=第一冊|author=章嶔|language=Trung văn phồn thể}}}}{{NoteTag|name=康}}
| align=right | {{NoteTag|1=[[thế kỷ 20 TCN|1954 TCN]]—[[thế kỷ 20 TCN|1953 TCN]], hai năm tang kỳ Đinh Hợi, Mậu Tý}}[[thế kỷ 20 TCN|1952 TCN]]<sup>Kỉ Sửu</sup>—[[thế kỷ 20 TCN|1946 TCN]]
| 7 năm <br />{{NoteTag|1=“七年陟。”{{RefTag|name=竹书纪年集解}}}}
|-
| align=center | [[Tướng (vua nhà Hạ)|Tướng]] <font size="+2">相</font><br />{{NoteTag|1=con của [[Trung Khang]].}}
| Tương An 相安{{RefTag|name=中華通史}}
| align=right | {{NoteTag|1=[[thế kỷ 20 TCN|1945 TCN]]—[[thế kỷ 20 TCN|1944 TCN]], hai năm tang kỳ Bính Thân, Đinh Dậu.}}[[thế kỷ 20 TCN|1943 TCN]]<sup>Mậu Tuất</sup>—[[thế kỷ 20 TCN|1916 TCN]]
| 28 năm <br />{{NoteTag|1=“二十八年寒浞使其子浇弑帝。”{{RefTag|name=竹书纪年集解}}}}
| Đế Khâu 帝丘
|-
! colspan=7 style="background: #C8D8FF;" | Thời kỳ "vô vương" ([[thế kỷ 20 TCN|1915 TCN]]─[[thế kỷ 19 TCN|1876 TCN]])
|-
| rowspan=2 align=center | [[Hậu Nghệ|Nghệ]] <font size="+2">羿</font><br />{{NoteTag|1=[[Hữu Cùng|Hữu Cùng thị]].}}
| rowspan=2 | Hậu Nghệ 后羿
| rowspan=2 align=center | không xưng hậu{{NoteTag|name=后羿称后|1=chưa chính thức xưng hậu, sau khi Trung Khang mất, con là Tướng chạy sang Nhị Châm, Nghệ một mình đảm đương quyền vị, được 8 năm thì bị [[Hàn Trác]] giết. Tuy nhiên "Trúc thư kỉ niên" ghi chép chưa rõ ràng rằng 40 năm của "thời kỳ vô vương" đều do Hàn Trác một mình cai quản, hơn nữa trong sử tịch Nghệ được tôn danh "Hậu Nghệ", thể hiện khả năng xưng qua hậu vị. Có thuyết nói Nghệ tại vị tỏng 8 năm [[thế kỷ 20 TCN|1915 TCN]]<sup>Bính Dần</sup>─[[thế kỷ 20 TCN|1908 TCN]], Hàn Trác tại vị trong 32 năm [[thế kỷ 20 TCN|1907 TCN]]<sup>Giáp Tuất</sup>─[[thế kỷ 19 TCN|1876 TCN]].{{RefTag|1=[[劉恕]],《资治通鉴外记》、[[鄭樵]],《通志》.}}}}
| rowspan=2 | 8 năm <br />{{NoteTag|name=后羿称后}}<br />{{NoteTag|1=“八年寒浞杀羿。”{{RefTag|name=竹书纪年集解}}}}
| Tư 鉏
|-
| rowspan=2 | Cùng Thạch 穷石
|-
| align=center | [[Hàn Trác]] <font size="+2">寒浞</font><br />{{NoteTag|1=Hữu Cùng thị ([[Bá Minh|Bá Minh thị]]. Hàn Trác nguyên là người thuộc Bá Minh thị, sau khi bị đuổi đi thì nhận được sự bảo hộ của Nghệ, được Hữu Cùng thị thu dưỡng.}}
| Trác 浞, Hàn Trác 韩浞{{RefTag|name=中華通史}}
| align=right | [[thế kỷ 20 TCN|1915 TCN]]<sup>Bính Dần</sup>─[[thế kỷ 19 TCN|1876 TCN]]
| 40 năm <br />{{NoteTag|name=后羿称后}}
|-
! colspan=7 style="background: #C8D8FF;" | Hạ hậu thị ([[thế kỷ 19 TCN|1875 TCN]]─[[thế kỷ 16 TCN|1559 TCN]])
|-
| rowspan=2 align=center | [[Thiếu Khang|Khang]] <font size="+2">康</font><br />{{NoteTag|name=康}}<br />{{NoteTag|1=con của [[Tướng (vua nhà Hạ)|Tướng]].}}
| rowspan=2 | Thiếu Khang 少康{{NoteTag|name=康}}{{NoteTag|1=có thuyết cho rằng Thiếu Khang là ông tổ nghề nấu rượu của Trung Quốc, [[Đỗ Khang]].}}
| rowspan=2 align=right | [[thế kỷ 19 TCN|1875 TCN]]<sup>Bính Ngọ</sup>—[[thế kỷ 19 TCN|1855 TCN]]
| rowspan=2 | 21 năm <br />{{NoteTag|1=“二十一年陟。”{{RefTag|name=竹书纪年集解}}}}
| Luân 綸
|-
| Đế Khâu 帝丘
|-
| rowspan=2 align=center | [[Hạ Trữ|Trữ]] <font size="+2">杼</font><br />{{NoteTag|1=con của [[Thiếu Khang]].}}
| rowspan=2 | Dữ 予, Trữ 宁, Trữ 佇, Vũ 宇, Tướng Mạn 相曼, Dư 輿, Quý Trữ 季杼{{RefTag|name=中華通史}}
| rowspan=2 align=right | {{NoteTag|1=[[thế kỷ 19 TCN|1854 TCN]]—[[thế kỷ 19 TCN|1853 TCN]], hai năm tang kỳ Đinh Mão, Mậu Thìn}}[[thế kỷ 19 TCN|1852 TCN]]<sup>Kỉ Tị</sup>—[[thế kỷ 19 TCN|1836 TCN]]
| rowspan=2 | 17 năm <br />{{NoteTag|1=“十七年陟。”{{RefTag|name=竹书纪年集解}}}}
| Nguyên 原
|-
| rowspan=6 | Lão Khâu 老丘
|-
| align=center | [[Hạ Hòe|Hòe]] <font size="+2">槐</font>
| Phân 芬, Phương 方, Tổ Vũ 祖武, Phân Phát 芬發{{RefTag|name=中華通史}}
| align=right | {{NoteTag|1=[[thế kỷ 19 TCN|1835 TCN]]—[[thế kỷ 19 TCN|1834 TCN]], hai năm tang kỳ Bính Tuất, Đinh Hợi.}}[[thế kỷ 19 TCN|1833 TCN]]<sup>Mậu Tý</sup>—[[thế kỷ 18 TCN|1790]]
| 44 năm <br />{{NoteTag|1=“四十四年陟。”{{RefTag|name=竹书纪年集解}};「《紀年》曰:-{后}-芬立四十四年。」{{RefTag|name=《太平御覽》卷八二皇王部}}}}
|-
| align=center | [[Hạ Mang|Mang]] <font size="+2">芒</font>
| Hoang 荒, Hòa 和{{RefTag|name=中華通史}}
| align=right | [[thế kỷ 18 TCN|1789 TCN]]<sup>Nhâm Thân</sup>—[[thế kỷ 18 TCN|1732 TCN]]
| 58 năm <br />{{NoteTag|1=“五十八年陟。”{{RefTag|name=竹书纪年集解}};「《紀年》曰:-{后}-芒陟位,五十八年。」{{RefTag|name=《太平御覽》卷八二皇王部}}}}
|-
| align=center | [[Hạ Tiết|Tiết]] <font size="+2">泄</font>
| Tiết 洩{{RefTag|name=中華通史}}
| align=right | {{NoteTag|1=[[thế kỷ 18 TCN|1731 TCN]], một năm tang kỳ Canh Ngọ.}}[[thế kỷ 18 TCN|1730]]<sup>Tân Mùi</sup>—[[thế kỷ 18 TCN|1706 TCN]]
| 25 năm <br />{{NoteTag|1=“二十五年陟。”{{RefTag|name=竹书纪年集解}}}}
|-
| align=center | [[Bất Giáng]] <font size="+2">不降</font><br />{{NoteTag|name=不降|1=có thuyết cho rằng danh là Giáng, biệt danh Bất Giáng.}}
| Giáng 降{{NoteTag|name=不降}}{{RefTag|name=世本|1=《[[世本]]》.}}, Giang Thành 江成{{RefTag|name=中華通史}}
| align=right | {{NoteTag|1=[[thế kỷ 18 TCN|1705 TCN]]—[[thế kỷ 18 TCN|1703 TCN]], ba năm tang kỳ Bính Thân, Đinh Dậu, Mậu Tuất}}[[thế kỷ 18 TCN|1702 TCN]]<sup>Kỉ Hợi</sup>—[[thế kỷ 17 TCN|1644 TCN]]
| 59 năm <br />{{NoteTag|1=“五十九年逊位于弟扁。”{{RefTag|name=竹书纪年集解}}}}
|-
| align=center | [[Hạ Quýnh|Quýnh]] <font size="+2">扃</font><br />{{NoteTag|1=đệ của Bất Giáng.}}
| Kiều 喬, Biển 扁, Cao Dương 高陽{{RefTag|name=中華通史}}
| align=right | [[thế kỷ 17 TCN|1643 TCN]]<sup>Mậu Tuất</sup>—[[thế kỷ 17 TCN|1626 TCN]]
| 18 năm <br />{{NoteTag|1=“十八年陟。”{{RefTag|name=竹书纪年集解}}}}
|-
| align=center | [[Hạ Cần|Cần]] <font size="+2">廑</font><br />{{NoteTag|1=con của Quýnh.}}
| Dận Giáp 胤甲, Quảng 廣, Húc 頊, Đổng Giang 董江, Triền 廛, Dận Giáp 𦙍甲{{RefTag|name=中華通史}}
| align=right | {{NoteTag|1=[[thế kỷ 17 TCN|1625 TCN]]—[[thế kỷ 17 TCN|1623 TCN]], ba năm tang kỳ Bính Thìn, Đinh Tị, Mậu Ngọ.}}[[thế kỷ 17 TCN|1622 TCN]]<sup>Kỉ Mùi</sup>—[[thế kỷ 17 TCN|1615 TCN]]
| 8 năm <br />{{NoteTag|1=“八年天有妖孽……其年陟。”{{RefTag|name=竹书纪年集解}}}}
| rowspan=4 | Tây Hà 西河
|-
| align=center | [[Khổng Giáp]] <font size="+2">孔甲</font><br />{{NoteTag|name=孔甲名|1=có thuyết nói Khổng Giáp là biệt danh, có vẻ như Dận Giáp là biệt danh của Cần- đường huynh của Khổng Giáp, song nguyên danh của Khổng Giáp đã thất truyền..}}<br />{{NoteTag|1=con của Bất Giáng.}}
| Khổng Giáp 孔甲{{NoteTag|name=孔甲名}}
| align=right | {{NoteTag|1=[[thế kỷ 17 TCN|1614 TCN]]—[[thế kỷ 17 TCN|1613 TCN]], hai năm tang kỳ Đinh Mão, Mậu Thìn.}}[[thế kỷ 17 TCN|1612 TCN]]<sup>Ất Tị</sup>—[[thế kỷ 17 TCN|1604 TCN]]
| 9 năm <br />{{NoteTag|1=“九年陟。”{{RefTag|name=竹书纪年集解}}}}
|-
| align=center | [[Hạ Cao|Cao]] <font size="+2">皋</font>
| Hạo 昊, Khổng Cao 孔皋, Giản Hạo 簡昊{{RefTag|name=中華通史}}
| align=right | {{NoteTag|1=[[thế kỷ 17 TCN|1603 TCN]]—[[thế kỷ 17 TCN|1602 TCN]], hai năm tang kỳ Mậu Dần, Kỉ Mão.}}[[thế kỷ 17 TCN|1601 TCN]]<sup>Canh Thìn</sup>—[[thế kỷ 16 TCN|1599 TCN]]
| 3 năm <br />{{NoteTag|1=“三年陟。”{{RefTag|name=竹书纪年集解}};「《紀年》曰:-{后}-昊立三年。」{{RefTag|name=《太平御覽》卷八二皇王部}}}}
|-
| align=center | [[Hạ Phát|Phát]] <font size="+2">發</font>
| Kính 敬, Kính Phát 敬發, Phát Huệ 發惠{{RefTag|name=中華通史}}
| align=right | {{NoteTag|1=[[thế kỷ 16 TCN|1598 TCN]]—[[thế kỷ 16 TCN|1597 TCN]], hai năm tang kỳ Quý Mùi, Kỉ Mão.}}[[thế kỷ 16 TCN|1596 TCN]]<sup>Ất Dậu</sup>—[[thế kỷ 16 TCN|1590]]
| 7 năm <br />{{NoteTag|1=“七年陟泰山震。”{{RefTag|name=竹书纪年集解}}}}
|-
| rowspan=2 align=center | [[Hạ Kiệt|Lý Quý]] <font size="+2">履癸</font>
| rowspan=2 | Kiệt 桀, Quý 癸<br />(Hạ Kiệt 夏桀)
| rowspan=2 align=right | [[thế kỷ 16 TCN|1589 TCN]]<sup>Nhâm Thìn</sup>—[[thế kỷ 16 TCN|1559 TCN]]
| rowspan=2 | 31 năm <br />{{NoteTag|1=“三十一年商自陑征夏邑……夏师败绩……放之于南巢。”{{RefTag|name=竹书纪年集解}}}}
| Châm Tầm 斟鄩
|-
| Hà Nam 河南
|-
| colspan=7 style="background: #CDCDCD;" | "Chú": Kết hợp cổ kim bản "Trúc thư kỉ niên" thể hệ suy toán, do niên đại quá xa, ghi chép thiếu thốn, các nhà chuyên môn suy toán khác nhau, niên đại trong biểu trên chỉ để tham khảo.{{RefTag|1={{Cite book|title=《今本竹書紀年疏證》|author=王国维|language=Trung văn phồn thể}}}}{{RefTag|1={{Cite book|title=《古本竹书纪年辑证》|author=方诗铭、王修龄|publisher=上海古籍出版社|date=2005年10月|language=Trung văn giản thể|isbn=9787532541911}}}}
|}
 
== Chú thích ==
{{ReflistH|2}}
{{NoteFoot}}
{{ReflistF}}
== Tư liệu tham khảo ==
{{ReflistH|2}}
{{RefFoot}}
{{ReflistF}}
=== Thư mục tham khảo ===
{{ReflistH}}
* 《中國神話傳說》,[[袁珂]] 著,里仁書局,ISBN 957-9113-42-4
* 《中國通史》,戴逸、龔書鐸 著,漢湘文化,ISBN 986-7348-07-9
* 《中華文明傳真─東方的曙光》,趙春青、秦文生 著,[[商务印书馆]],ISBN 962-07-5314-3
{{ReflistF}}
 
[[Thể loại:Nhà Hạ| ]]
[[Thể loại:Cựu quốc gia trong lịch sử Trung Quốc]]
[[Thể loại:Cựu quốc gia châu Á]]
 
{{Liên kết chọn lọc|zh}}