Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Tống Duy Tân”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Arc Warden (thảo luận | đóng góp)
n →‎Tham khảo: chính tả, replaced: xuât → xuất using AWB
Dòng 23:
Tổ chức của các ông khá quy củ. Mỗi huyện có một cơ binh, lấy tên huyện đặt tên cho đơn vị, ví dụ như ''Nông Thanh cơ'' (tức cơ Nông Cống ở Thanh Hóa), ''Tống Thanh cơ'' (tức cơ Tống Sơn ở Thanh Hóa),...
 
Hay tin, ngày [[8 tháng 10]] năm [[1889]], quân Pháp gồm 24 tên do thiếu úy Morfond (đồn trưởng đồn Nông Cống) từ đồn [[Nông Cống]] đi đến dò xét thì chạm súng với nghĩa quân Hùng Lĩnh; kết cục chúng đã bỏ lại ở chiến trường 9 xác chết của thiếu úy Morfond, 4 lính Pháp và 4 lính khố xanh. Ngày [[22 tháng 10]], Đại tá Barbaret dẫn 185 quân Phápcó trang bị đại bác từ Thanh Hóa lại kéo đến tấn công. Sau ngày kịch chiến, Tống Duy Tân cho quân rút về phía Bắc Phố Cát ([[Thạch Thành]]), rồi sang Vạn Lại (Bắc Ninh). Cuối tháng này, nhờ có những toán quân cũ của tướng Trần Xuân Soạn tìm đến tham gia, nên Tống Duy Tân lại cho quân đẩy mạnh hoạt động trong các huyện [[Yên Định]], [[Thọ Xuân]], [[Nông Cống]]. Sau đó, đôi bên còn giao chiến thêm nhiều trận nữa, đáng kể là trận Vạn Lại ([[Vạn Ninh]]-[[Thọ Xuân]]) ngày [[30 tháng 11]] và trận Yên Lược ([[Thọ Xuân]]) vào ngày [[2 tháng 12]] cùng năm.
 
Thấy công cuộc thôn tính nước [[Việt Nam|Việt]] bị cản trở, thựcTổng dânchỉ huy quân đội Pháp liền tăngĐông cườngDương là J. Bichot đã đưa Trung tá Lefèvre đến thay Barbaret, điều một lực lượng đểlớn dập(có tắtcả đại bác) đến tấn công phong trào do Tống Duy Tân làm thủ lĩnh. Trước lực lượng đối phương đông đảo, lại được trang bị vũ khí mạnh, ông phải cho quân vừa chống đỡ các cuộc tấn công của Lefèvre ở Vạn Lại (30/11/1889), vừacuộc rúttấn dầncông lêncủa vùngĐại miềnúy núiColletaphíaYên TâyLược Thanh(1/12/1889)...vừa Hóarút lui để bảo toàn lực lượng.
 
Trong năm [[1890]], Tống Duy Tân đã tổ chức tập kịch nhiều trận. Đángnhư kểtrận hơnlàng cảKẽm (1/1/1890) trận- thắngquân lớnPháp của tên Trung tá Jorne de Lacale (thay Lefèvre) bị thiệt hại nặng, đại úy Christophe bị tử thương; trận Vân Đồn ([[Nông Cống]]) đánh tan đạo quân do Công sứ Thanh Hóa Lebrun chỉ huy, Yên Lãng (29/3/1890) ở Xuân Yên-[[Thọ Xuân]]) (bên tả ngạn [[sông Chu]]). vàoSáng [[thángngày ba|tháng26/4, 3]]quân nămPháp [[1890]]tấn công tiền đồn Na Lung của Cao Điển. Không thể giữ được đồn, Cao Điển rút về bày binh bố trận, đánh tan quân Pháp ở trận Thanh Khoái xảy ra vào ngày [[29 tháng 5]] năm 1890 (thiếu úy Bonnet và 6 lính cơ tử trận, nhiều lính bị thương trong đó có viên sĩ quan tên Viola). Bị thiệt hại đáng kể, quân Pháp bèn tập trung lực lượng mở cuộc truy quét quy mô nhằm tiêu diệt nghĩa quân Hùng Lĩnh.
 
Kể từ đây trở đi, Lực lượng của Tống Duy Tân bước vào thời kỳ chiến đấy gay go và gian khổ hơn. Nhất là sau trận Thanh Khoái, nghĩa quân ông lâm vào tình thế bị cô lập nên bị thiếu thốn mọi mặt.
 
Đầu năm [[1891]], Tống Duy Tân cho chuyển quân từ An Lẫm (châu [[Thường Xuân]]) lên Lang Vinh (một làng [[người Mường|Mường]] ở châu [[Thường Xuân]]). Hay tin, quân [[Pháp]] do Giám binh Soler chỉ huy liền tổ chức tấn công. Mặc dù chống trả quyết liệt, nhưng cuối cùng ông cũng phải bỏ hết các công sự xây dở dang, dẫn tàn quân rút về Hòn Mông, rồi về vùng Trịnh Vạn thuộc châu Thường Xuân (tức quê hương và là căn cứ của [[Cầm Bá Thước]]).
[[Tháng ba|Tháng 3]] năm [[1892]], từ [[sông Đà]], Đốc Ngữ dẫn quân vượt [[sông Mã]] vào [[Thanh Hóa]]. Sau khi bàn bạc, Tống Duy Tân và Đốc Ngữ cùng hợp quân đi tấn công quân Pháp ở hang Niên Kỷ (nay thuộc xã Thiết Ống, huyện [[Bá Thước]], tỉnh [[Thanh Hóa]]). Mặc dù thu được một số thắng lợi, nhưng cũng không thể nào cứu vãn được tình thế.
Dòng 38:
 
===Bị giết chết===
Sau đó, ông về ẩn náu ở hang Niên Kỷ (nay thuộc xã Thiết Ống, huyện [[Bá Thước]], tỉnh Thanh Hóa), còn Cao Điển cùng một số thuộc hạ quyết chí theo thì đóng trên một ngọn đồi gần bên. Chẳng lâu sau, án sát Hà Tĩnh [[Cao Ngọc Lễ]] (vừa là học trò cũ, vừa là cháu kêu Tống Duy Tân bằng cậu) đi mật báo cho Pháp và quân Pháp do tên thiếu úy Pháp Hensxhell cùng 20 lính đến bủa vây và bắt được Tống Duy Tân vào ngày [[4 tháng 10]] năm [[1892]]<ref>Phần nhiều các sách sử trong đó có: ''Lịch sử Việt Nam'' [1858-cuối XIX], quyển 3, tập 1, phần 1, tr. 128), ''Đại cương lịch sử Việt Nam'' (tập 2. tr. 78) ''Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam'' (tr. 848) đều ghi theo ý này. Tuy nhiên theo nhà sử học [[Phạm Văn Sơn]] thì vì bị hăm dọa mà vợ của một viên thổ ty (khi trước có chứa chấp nghĩa quân) phải dẫn thiếu úy Hensxhell cùng 20 lính đi bắt sống Tống Duy Tân vào chiều ngày [[4 tháng 10]] năm [[1892]]. Còn phần Cao Ngọc Lễ làm chỉ điểm, ông chỉ chú thích thêm là có sách chép như vậy ([[Việt sử tân biên]], quyển 5, tập trung, tr. 141).</ref>.
 
Trước hôm đó một ngày (ngày [[3 tháng 10]]), một toán quân Pháp khác gồm 30 người đi vây bắt Cao Điển. Hai bên đụng độ ác liệt. Nghĩa quân bị bắt 2, chết 6; nhưng Cao Điền đã kịp chạy thoát cùng bốn năm người với hai khẩu [[súng]]...<ref>Cao Điền lẩn tránh ở đất [[Bắc Kỳ|Bắc]] được mấy năm, thì Cao Điển bị bắt tại [[Bắc Giang]] khi đang tìm đến với nghĩa quân [[Yên Thế]] do [[Hoàng Hoa Thám]] làm thủ lĩnh. Hôm ấy là ngày [[16 tháng 1]] năm [[1896]]. Số phận của ông về sau không rõ. Phần Cầm Bá Thước vẫn ở lại tiếp tục hoạt động cho đến [[tháng năm|tháng 5]] năm [[1895]] thì bị mới đối phương bắt giết.</ref>
 
Không chiêu hàng được, TốngCông Duysứ TânPháp bị [[đếThanh quốcHóa thựcBoulloche dânra Pháp|thựclệnh dâncho Pháp]]tên choTổng đốc Thanh Hóa Nguyễn Thuật (vốn là bạn cũ của ông) xử tử Tống Duy Tân tại [[Thanh Hóa]] ngày 5 tháng Mười năm [[Nhâm Thìn]] (tức [[23 tháng 11]] năm [[1892]])<ref>Ngày Tống Duy Tân hy sinh, chép theo ''Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam'', tr. 846.</ref>, lúc 55 tuổi. Đến đây, cuộc khởi nghĩa mà ông cùng đồng đội đã cố công gầy dựng coi như kết thúc.
 
Trước ngày mất, Tống Duy Tân có làm đôi câu đối: