Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Phổ (quốc gia)”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Arc Warden (thảo luận | đóng góp)
n chính tả, replaced: khắc khe → khắt khe (3) using AWB
n General Fixes
Dòng 167:
Quốc vương [[Gustav II Adolf]] và Quốc vương Friedrich II Đại Đế đều là những vị vua - chiến binh, đều giành những chiến thắng lừng lẫy trước những kẻ thù hùng mạnh. Những chiến thắng của nước Phổ vào thế kỷ XVIII, cũng như những chiến thắng của nước Thụy Điển vào thế kỷ XVII, đã in sâu vào tinh thần của dân tộc họ.<ref>Peter H. Wilson, ''The Thirty Years War: Europe's tragedy'', trang 187</ref> Trong suốt triều đại của ông, về mặt ngoại giao, ông thường lợi dụng những bất hòa giữa các cường quốc (ví dụ: Áo, Nga); qua đó, ông phá vỡ liên minh của họ, hoặc khuyến khích họ liên minh với nhau, nhờ đó, Vương quốc Phổ có điều kiện phát triển tương đối thuận lợi.<ref name="kkhaxuan320"/><ref name="Radhey Shyam Chaurasia"/> Trong 23 năm cuối đời, cho tới 1786, ông khuyến khích việc phát triển nhiều vùng ở Phổ, như là [[Oderbruch]]. Vào năm 1764, với sự phò tá đắc lực của Hoàng đệ Heinrich - một nhà ngoại giao tài ba, ông liên minh với nước Nga - đây là Liên minh lâu dài nhất trong lịch sử nền quân chủ Phổ, giúp nước Phổ hùng mạnh thoát khỏi tình trạng cô lập sau cuộc chiến tranh Bảy năm. Với liên minh này, Triều đình Phổ của vua Friedrich II Đại Đế dễ dàng hơn trong việc chi phối các chính sách của Triều đình Nga, và trở thành một trong những quan thầy của Triều đình Ba Lan bù nhìn của nước Nga.<ref name="aGerhardr187"/><ref>Gerhard Ritter, ''Frederick the Great: a historical profile'', trang 188</ref> Đồng thời ông không ngừng nỗ lực tăng cường binh lực và gia tăng ngân khố Phổ để bảo vệ vị thế liệt cường của đất nước,<ref name="Ritter185">Gerhard Ritter, ''Frederick the Great: a historical profile'', trang 185</ref> sau khi đánh bại liên minh chống Phổ của Áo - Pháp - Nga trong bảy năm chinh chiến,<ref>Bernard Pares, ''Russia and the Peace'', trang 95</ref> ông còn tham dự vào [[Sự phân chia Ba Lan|Cuộc phân chia Ba Lan lần thứ nhất]] cùng với [[Áo]] và Nga (1772) để giành thêm lãnh thổ; sau chiến tranh, châu Âu lục địa kiệt quệ, và [[Vương quốc Ba Lan và Đại Công quốc Litva]] có nguy cơ bị chia cắt bởi hai nước Nga và Áo, nên ông quyết định can thiệp.<ref>Christopher Duffy, ''Frederick the Great: A Military Life'', trang 263</ref> Ba Lan đang trong tình trạng vô chính phủ, và trong chiến tranh, quân Nga thường đóng quân tại đây, có thể thấy vào năm [[1761]], Quân đội Phổ phá tan tác kho đạn dược của quân Nga tại Ba Lan.<ref>Christopher Duffy, ''Frederick the Great: A Military Life'', trang 224</ref>
 
Với chiến thắng về ngoại giao của nước Đức trước Nga và Áo,<ref name="Treitschke163">Heinrich Von Treitschke, George Haven Putnam, ''Confessions of Frederick the Great and the Life of Frederick the Great'', trang 163</ref> ông đạt được thành quả quan trọng hơn cả so với hai nước kia:<ref name="Brackenbury">C B Brackenbury, C. B. Brackenbury, ''Frederick the Great'', các trang 251-254.</ref> nhờ đó Công quốc [[Đông Phổ]] kết nối với những vùng đất khác của vua Friedrich II Đại Đế, hoàn thiện việc thống nhất các lãnh thổ Phổ và tiếp tục thể hiện vai trò liệt cường của Vương quốc Phổ.<ref name="georegre273">Gregorio F. Zaide, ''World history'', trang 273</ref> Trong cuộc Chiến tranh Bảy năm, vùng Đông Phổ bị Nga chiếm đóng nhưng họ vẫn luôn chống Nga, trung thành với nhà vua; sau ngày nhà vua thắng trận, với cuộc chia cắt Ba Lan này, vùng Đông Phổ được giữ vững, hoàn toàn thoát khỏi mối lo sợ về việc quân Nga sẽ [[xâm lược]] trở lại.<ref name="Treitschke163"/><ref>Heinrich Von Treitschke, George Haven Putnam, Douglas Sladen, ''Confessions of Frederick the Great and the Life of Frederick the Great'', trang 156</ref> Giờ đây, với tư cách là Bá chủ của vùng [[Tây Phổ]], ông mở được những vùng biên cương chiến lược của đất nước đến [[wisla|sông Wisla]] và [[sông Netze]]. Nhà vua xây nên [[kênh đào Bromberg]] cho đến [[oder|sông Oder]], giúp ông hòa nhập sông Wisla với các đường hàng hải nội địa của các lãnh thổ cũ của ông.<ref>Christopher Duffy, ''Frederick the Great: A Military Life'', trang 266</ref> Với những cuộc chinh phạt huy hoàng của ông, ông trở thành nhà chinh phạt nổi tiếng nhất của nước Phổ, và là vị thống soái kiệt xuất nhất trong thời đại của ông. Quân đội của ông tuy ít, nhưng nhờ kỷ luật và thiên tài của ông, dẫn đến một loạt chiến thắng oanh liệt trước liên quân chống Phổ.<ref>Winston Groom, ''A Storm in Flanders: The Ypres Salient, 1914-1918: Tragedy and Triumph on the Western Front'', trang 32</ref><ref>[http://books.google.com/books?id=-1IEAAAAMBAJ&lpg=PP1&pg=PA65#v=onepage&q&f=false The Case of the Distinguised Corpses, Will Lang, Life Magazine, Marngày 6, tháng 3 năm 1950]</ref><ref>John Jacob Anderson, ''A Manual of General History - Being an Outline History of the World from the Creation to the Present Time. with Numerous Engravings and Maps. for the Use of Colleges High-Schools, Academies, Etc.'', trang 330</ref>
 
[[Tập tin:Der König überall2.JPG|phải|nhỏ|185px|Tuy ngự trị thiên hạ nhưng vua Friedrich II Đại Đế vẫn sống đời giản dị, chăm chỉ, do đó ông được lòng dân. Là bạn thân của nhà triết học kiệt xuất [[Voltaire]] người Pháp, ông thường đi thị sát, và nói chuyện thân mật với bà con [[nông dân]].<ref name="alicebirkhe"/><ref name="birdshal"/>]]
Dòng 178:
 
Không những là một ông vua cần cù siêng năng, ông còn đam mê âm nhạc.<ref>Gerhard Ritter, ''Frederick the Great: a historical profile'', trang 95</ref> Là vị vua dẫn dắt nền văn hóa đồ sộ của nước nhà trở nên tiến bộ hơn, ông ví von mình với [[Moses]] trên bán đảo [[Bán đảo Sinai|Sinai]], và ông cũng giống như Moses vậy.<ref>Michael O'Loghlin, ''Frederick the Great and his musicians: the viola da gamba music of the Berlin school'', trang 32</ref><ref>Heinrich Von Treitschke, George Haven Putna, ''Confessions of Frederick the Great and the Life of Frederick the Great'', các trang 19-22. Trang 202: "...Moses..."</ref> Do văn võ song toàn, ông được xem là vị vua vĩ đại hơn cả Napoléon.<ref>Mary Lindemann, ''Liaisons dangereuses: sex, law, and diplomacy in the age of Frederick the Great'', trang 73</ref>
{{Cquote|''Chúng ta đang gần như quên lãng một nước Phổ làm gương cho không ít các nước khác. Nước [[Nhật Bản]] là một trong số đó, họ noi theo nước Phổ, nên thỉnh thoảng gọi là "Vương quốc Phổ của [[Châu Á|Á châu]]".''|||Nis Petersen, chuyên gia về vua Friedrich II Đại Đế, phụ trách bộ môn Lịch sử Trường Cao đẳng Quốc gia Jersey<ref>James, Barry: ''[http://web.archive.org/web/20051025102906/http://www.iht.com/articles/1991/08/15/grea.php 200 Years Later, Frederick the Great Still Makes Trouble]'', [[International Herald Tribune]], Augustngày 15 tháng 8 năm 1991{{dead link|date=October 2010}}</ref>}}
 
Là một Quân vương độc đoán, vị vua vĩ đại Friedrich II Đại Đế hạn chế uy quyền của Thủ tướng Chính phủ Phổ là [[Bá tước Karl-Wilhelm Finck von Finckenstein]] - người làm quan đến cuối đời ông và luôn trung thành với ông.<ref>Dieudonné Thiébault, ''Original anecdotes of Frederick the Great, King of Prussia: and of his family, his court, his ministers, his academies, and his literary friends'', Tập 2, trang 69</ref><ref>Brendan Simms, "The Impact of Napoleon: Prussian High Politics, Foreign Policy and the Crisis of the Executive, 1797-1806", Cambridge University Press, 2002, tr. 149</ref> Ông đề ra bộ luật dân sự tổng quát, xóa bỏ hình thức tra tấn, thiết lập nguyên tắc Hoàng gia không can thiệp vào những vấn đề tư pháp. Ông cũng sáng lập hệ thống giáo dục "trung học" nâng cao, tiền thân của hệ thống các trường Grammar School ngày nay ở Đức, đào tạo những học sinh giỏi tương lai cho các trường đại học. Ông cũng biến kinh đô [[Berlin]].<ref name="Stanley296">Stanley Sandler, ''Ground warfare: an international encyclopedia'', Tập 1, trang 296</ref> Ông còn tiến đánh Hoàng đế Áo là [[Joseph II của đế quốc La Mã Thần thánh|Joseph II]] trong cuộc [[Chiến tranh Kế vị Bayern]] (1778 - 1779), để buộc Hoàng đế Joseph II phải từ bỏ âm mưu xâm chiếm xứ Bayern. [[Hiệp định Teschen]] (1779) là một thắng lợi của ông, nước Áo phải từ bỏ xứ Bayern.<ref>Christopher Duffy, ''Frederick the Great: A Military Life'', trang 278</ref> Bước vào năm 1780, người chiến binh già này trở thành một trong những nhân vật duy nhất có tầm vóc anh hùng trên chính trường Âu châu.<ref name="autogenerated2">Christopher Duffy, ''Frederick the Great: A Military Life'', trang 279</ref>
Dòng 361:
* [http://bpkgate.picturemaxx.com/index.php?language=tiếng Anh Stiftung Preußischer Kulturbesitz] (picture archive).
* [http://www.spsg.de/ Foundation for Prussian Palaces and Gardens Berlin-Brandenburg]
* {{de icon}} [http://www.lwl.org/westfaelische-geschichte/portal/Internet/ku.php?tab=que&ID=830 Constitutional deed for the Prussian state ("Imposed Constitution" – Decemberngày 5, tháng 12 năm 1848)] (full text).
* {{de icon}} [http://www.lwl.org/westfaelische-geschichte/portal/Internet/ku.php?tab=que&ID=831 Constitutional deed for the Prussian state ("Revised Constitution" – Januaryngày 31, tháng 1 năm 1850)] (full text).
* [https://www.raremaps.com/cgi-bin/gallery.pl/enlarge/18319 Map of Prussia in 1690]
* [http://www.gemeindeverzeichnis.de/gem1900//gem1900.htm?preussen1900.htm Administrative Subdivision of the Kingdom of Prussia, 1900/10]