Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Lớp phủ (địa chất)”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n Thay tập tin Earthquake_wave_paths.gif bằng tập tin Earthquake_wave_paths.png (được thay thế bởi GifTagger vì lí do: Replacing GIF by exact PNG duplicate.)
n →‎Đặc trưng: General Fixes
Dòng 20:
Lớp phủ về bản chất khác lớp vỏ ở các đặc trưng cơ học và thành phần [[hóa học]] của nó. Khác biệt giữa hai lớp được dựa trên các đặc trưng hóa học, kiểu đá, lưu chấn học và địa chấn học. Trên thực tế, lớp vỏ là sản phẩm của sự nóng chảy của lớp phủ. Sự nóng chảy một phần của vật liệu lớp phủ được coi là nguyên nhân làm cho các nguyên tố không tương thích với nhau bị tách ra khỏi đá lớp phủ, với các vật chất ít nặng hơn bị nổi lên trên thông qua các khe hở, vết nứt hay các rãnh nứt, bị nguội đi và đông đặc lại ở bề mặt.Các loại đá lớp phủ điển hình có tỷ lệ [[magiê]] trên [[sắt]] cao hơn và tỷ lệ nhỏ hơn của [[silic]] và [[nhôm]] so với lớp vỏ. Kiểu tỷ lệ như vậy cũng được dự báo bằng các thực nghiệm làm nóng chảy một phần các loại đá được cho là đại diện của lớp phủ Trái Đất.
 
[[Tập tin:Earthquake_wave_pathsEarthquake wave paths.png|nhỏ|trái|Lập bản đồ phần bên trong của [[Trái Đất]] với sóng [[động đất|địa chấn]].]]
Đá lớp phủ nằm nông hơn khoảng 400&nbsp;km độ sâu bao gồm chủ yếu là [[olivin]]<ref name="eis">{{chú thích web |url=http://geology.com/nsta/earth-internal-structure.shtml
|title=Earth's Internal Structure – Crust Mantle Core – Geology.com |accessdate=8-10-2008}}</ref>, [[pyroxen]], [[spinel]] và [[granat|thạch lựu]]<ref name="burns"/><ref name="aus">{{chú thích web |url=http://www.amonline.net.au/geoscience/earth/structure.htm#mantle |title=Geoscience: the earth: structure… |publisher=Australian Museum |date=2004 |accessdate=8-10-2008}}</ref>; các kiểu đá điển hình được cho là [[peridotit]],<ref name="burns"/> [[dunit]] (peridotit giàu olivin) và [[eclogit]]. Giữa độ sâu khoảng 400&nbsp;km và 650&nbsp;km, olivin không ổn định và bị thay thế bằng các dạng [[đa hình (vật liệu)|đa hình]] áp suất cao với xấp xỉ cùng một thành phần: một đa hình là [[wadsleyit]] (hay kiểu ''beta-spinel''), còn đa hình kia là [[ringwoodit]] (khoáng vật với cấu trúc kiểu ''gamma-[[spinel]]''). Dưới độ sâu 650&nbsp;km, tất cả các loại khoáng vật của lớp phủ trên bắt đầu trở thành không ổn định; các khoáng vật phổ biến nhất hiện diện có cấu trúc (nhưng không phải thành phần) tương tự như cấu trúc của khoáng vật [[perovskit]]. Các thay đổi trong thành phần khoáng vật ở độ sâu khoảng 400 tới 650&nbsp;km sinh ra các dấu hiệu đặc trưng để phân biệt trong các hồ sơ địa chấn của phần bên trong Trái Đất, và giống như "moho", chúng dễ dàng được phát hiện bằng việc sử dụng sóng địa chấn. Các thay đổi khoáng vật học này có thể ảnh hưởng tới [[Đối lưu manti|đối lưu lớp phủ]], do chúng tạo ra các thay đổi về tỷ trọng và chúng có thể hấp thụ hay giải phóng [[ẩn nhiệt]] cũng như làm giảm xuống hay tăng lên độ sâu của sự chuyển tiếp pha đa hình cho các khu vực có nhiệt độ khác nhau. Các thay đổi trong thành phần khoáng vật học theo độ sâu đã được điều tra trong các thực nghiệm phòng thí nghiệm sao chép lại áp suất cao lớp phủ, chẳng hạn trong các thực nghiệm sử dụng [[đe kim cương]]<ref name="squeeze">