Khác biệt giữa bản sửa đổi của “New Guinea”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n General Fixes
Dòng 34:
|url=http://web2.wku.edu/~smithch/wallace/S078.htm
|year=1863
|accessdate=30 November 2009}}; {{chú thích sách | last = Wallace | first = Alfred Russel | authorlink = Alfred Russel Wallace | title = The Malay Archipelago | publisher = Macmillan and Co | year = 1869 | location = London | page = 2}} {{dead link|date=July 2012}}</ref> Về mặt địa chất, New Guinea và Úc cùng là một phần của một [[mảng kiến tạo]]. Khi mực nước biển địa cầu xuống thấp, hai nơi có chung đường bờ biển (nay nằm sâu 100 đến 140 mét dưới mực nước biển),<ref name="aims">{{chú thích web | year = 2001 | url = http://www.aims.gov.au/c/document_library/get_file?uuid=703cba58-6526-44e4-91eb-7ef84e4ba25d&groupId=30301 | title = Big Bank Shoals of the Timor Sea: An environmental resource atlas | publisher = Australian Institute of Marine Science | accessdate = 2006-08-28}}</ref> kết hợp với các phần đất liền mà nay bị ngập kiến tạo lục địa [[thềm lục địa Sahul|Sahul]],<ref name=ballard>{{cite conference |first=Chris |last=Ballard |authorlink= |title=Stimulating minds to fantasy? A critical etymology for Sahul |booktitle=Sahul in review: Pleistocene archaeology in Australia, New Guinea and island Melanesia |pages=19–20 |publisher=Australian National University | location= Canberra |year=1993 |isbn=0-7315-1540-4 }}</ref><ref name="Allen 1977">{{chú thích sách |last=Allen |first=J. |authorlink= |coauthors=J. Golson and R. Jones (eds) |editor= |others= |title=Sunda and Sahul: Prehistorical studies in Southeast Asia, Melanesia and Australia |year=1977 |publisher=Academic Press |location=London |isbn=0-12-051250-5 |pages= |chapter= |quote = }}</ref> hay còn gọi là [[châu Úc|Đại Úc]].<ref>{{Cite journal |last=Allen |first=Jim |last2=Gosden |first2=Chris |last3=Jones |first3=Rhys |last4=White |first4=J. Peter |year=1988 |title=Pleistocene dates for the human occupation of New Ireland, northern Melanesia |journal=[[Nature (journal)|Nature]] |volume=331 |issue=6158 |pages=707–709 |doi=10.1038/331707a0}}</ref> Hai đại lục bị tách biệt khi khu vực mà nay là [[eo biển Torres]] bị ngập sau khi kết thúc [[thời kỳ băng hà cuối cùng]]. Về nhân loại học, New Guinea được xem là một phần của [[Melanesia]].<ref>"Melanesia, the ethnogeographic region that includes New Guinea, Solomon Islands, Vanuatu, and New Caledonia, contains some of the most remote and inaccessible populations on earth." Highly divergent molecular variants of human T-lymphotropic virus type I from isolated populations in Papua New Guinea and the Solomon Islands, A Gessian, R Yanagihara, G Franchini, R M Garruto, C L Jenkins, A B Ajdukiewicz, R C Gallo, and D C Gajdusek, PNAS Septemberngày 1, tháng 9 năm 1991 vol. 88 no. 17 7694-7698</ref> Về mặt chính trị học, [[Tây New Guinea|nửa phía tây của đảo]] gồm hai tỉnh của Indonesia: [[Papua (tỉnh)|Papua]] và [[Tây Papua]]. Nửa phía đông của đảo tạo thành phần đại lục của quốc gia [[Papua New Guinea]]. Hòn đảo có khoảng 7,5 triệu cư dân, mật độ dân số chỉ là 8 người/km².
 
So với New Guinea, Úc ở phía nam khô hơn, bằng phẳng hơn,<ref>{{chú thích báo|url=http://www.smh.com.au/news/National/Map-from-above-shows-Australia-is-a-very-flat-place/2005/01/21/1106110947946.html|title=Map from above shows Australia is a very flat place|date=21 January 2005|last=Macey|first=Richard|publisher=''[[The Sydney Morning Herald]]''|accessdate=5 April 2010}}</ref> và kém phì nhiêu hơn<ref>{{chú thích web|url=http://www.abc.net.au/quantum/info/q95-19-5.htm|title=A Chat with Tim Flannery on Population Control|last=Kelly|first=Karina|publisher=[[Australian Broadcasting Corporation]]|date=13 September 1995|accessdate=23 April 2010}} "Well, Australia has by far the world's least fertile soils".</ref><ref>{{chú thích web|title=Damaged Dirt|publisher=''[[The Advertiser (Adelaide)|The Advertiser]]''|last=Grant|first= Cameron|url=http://www.1degree.com.au/files/AdvertiserPartworks_Part3_Page8.pdf?download=1&filename=AdvertiserPartworks_Part3_Page8.pdf|date=August 2007|accessdate=23 April 2010}} "Australia has the oldest, most highly weathered soils on the planet."</ref>, New Guinea có lượng mưa cao hơn nhiều cùng hoạt động địa chất núi lửa, đỉnh cao nhất trên đảo là [[Puncak Jaya]] đạt cao độ 4.884&nbsp;m (16.023&nbsp;ft). Hai đại lục tương đồng về một số loài động vật, với các loài thú có túi, bao gồm [[wallaby]] and [[possum]], và động vật đơn huyệt đẻ trứng, [[Tachyglossidae|thú lông nhím]]. Ngoài dơi và khoảng hơn hai chục loài gặm nhấm,<ref>{{Cite journal |title=A Phylogeny of New Guinea Rodent Genera Based on Phallic Morphology |first=W. Z., Jr. |last=Lidicker |journal=Journal of Mammalogy |volume=49 |issue=4 |year=1968 |pages=609–643 |doi=10.2307/1378724 }}</ref> không có các loài thuộc [[lớp phụ thú có nhau]] trước thời kỳ người bản địa. Lợn, một số loài chuột, và tổ tiên của [[chó hát New Guinea]] do con người đưa đến đảo.
 
Nghiên cứu chỉ ra rằng các vùng cao là một trung tâm nông nghiệp ban đầu và độc lập, với bằng chứng về thủy lợi có niên đại cách nay ít nhất 10.000 năm.<ref>"The team also dated features consistent with the planting, digging, and tethering of plants and localized drainage systems to 10,000 years ago. Mounds constructed to plant water-intolerant plants such as bananas, sugarcane, and yams are dated to about 6,500 years ago." "Was Papua New Guinea an Early Agriculture Pioneer?" By John Roach, for ''National Geographic News'', [http://news.nationalgeographic.com/news/2003/06/0623_030623_kukagriculture.html Junengày 23, tháng 6 năm 2003]</ref> Do thời gian định cư có bề dày và địa hình chia cắt, con số ngôn ngữ trên đảo cao bất thường, với khoảng 1.000 ngôn ngữ (con số cao hơn so với hầu hết các lục địa) được ghi vào mục lục so với 6.000 thổ ngữ của con người vào thời kỳ tiền Colombo. Hầu hết các ngôn ngữ trên đảo được phân loại thuộc [[nhóm ngôn ngữ Papua]], song có một số ngôn ngữ thuộc [[ngữ hệ Nam Đảo]] được nói tại khu vực bờ biển và các đảo nhỏ nằm sát đó.
 
Thế kỷ 16, các nhà thám hiểm người Tây Ban Nha phát hiện ra đảo và gọi nó là ''Nueva Guinea''. Trong lịch sử gần đây, Tây New Guinea được sáp nhập vào thuộc địa [[Đông Ấn Hà Lan]]. Người Đức sáp nhập bờ biển phía bắc của nửa phía đông, hình thành nên [[New Guinea thuộc Đức]] trong nỗ lực nhằm trở thành một thế lực thuộc địa vào trước Thế chiến thứ nhất, trong khi người Anh miễn cưỡng tuyên bố chủ quyền phần phía nam. Sau [[Hòa ước Versailles]], phần lãnh thổ của Đức trên đảo bị giao lại cho [[Úc]] như một lãnh thổ ủy thác của [[Hội Quốc Liên]]. Nửa phía đông của đảo giành được độc lập từ Úc và thành lập nên [[Papua New Guinea]] vào năm 1975. Nửa phía tây giành được độc lập từ Hà Lan vào năm 1961, song trở thành một bộ phận của Indonesia ngay sau đó trong hoàn cảnh gây tranh cãi.<ref>[http://www.gwu.edu/~nsarchiv/NSAEBB/NSAEBB12/ (authorization required)]</ref>