Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Ana Ivanović”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n General Fixes
Tnq9999 (thảo luận | đóng góp)
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 33:
== Sự nghiệp ==
[[Tập tin:Ivanovic Medibank 2008.jpg|thumb|left|Ana Ivanovic tại Medibank International 2008]]
AnaIvanovic bắt đầu làm quen với cây vợt lúc 5 tuổi khi xem tay vợt đồng huơng [[Monica Seles]] thi đấu trên truyền hình.<ref name=WTA /> Cô bắt đầu sự nghiệp của mình sau khi biết được số điện thoại của một cơ sở đào tạo quần vợt từ một quảng cáo. Trong các vụ đánh bom của [[NATO]] vào Nam Tư, cô tập luyện trong buổi sáng để tránh các cuộc không kích. Sau đó, cô nói rằng cô được đào tạo trong một bể bơi bị bỏ rơi trong mùa đông vì các sân quần vợt không có sẵn.
 
===2003 - 2005===
Ivanovic lần đầu vô địch vào đầu năm 2005 tại giải Canberra International, sau khi đánh bại [[Melinda Czink]] trong trận chung kết. Thứ hạng của cô tiếp tục tăng sau khi giành chiến thắng trước [[Svetlana Kuznetsova]], [[Nadia Petrova]] ở Miami, và [[Vera Zvonareva]] ở Warsaw, tất cả họ đều là các tay vợt trong top 10.
Ivanovic bắt đầu thi đấu chuyên nghiệp từ tháng 8 năm 2003. Năm 2004, cô lọt vào chung kết giải đấu Junior Wimbledon và để thua Kateryna Bondarenko.<ref>{{cite web|url=http://www.tenniseurope.org/MediaInfocentre/Med_Info_Archive_Wimbledon2004.aspx |title=Wimbledon 2004 |publisher=Tennis Europe |accessdate=9 July 2010}}</ref> Cô lần đầu giành được danh hiệu vô địch vào đầu năm 2005 tại giải Canberra International, sau khi đánh bại [[Melinda Czink]] trong trận chung kết. Thứ hạng của cô tiếp tục tăng sau khi giành chiến thắng trước [[Svetlana Kuznetsova]], [[Nadia Petrova]] ở Miami, và [[Vera Zvonareva]] ở Warsaw, tất cả họ đều là các tay vợt trong top 10. Tại giải Úc mở rộng 2005, cô lọt được vào vòng 3 và để thua Amélie Mauresmo. Sau đó tại giải Pháp mở rộng cô vào đến vòng tứ kết.<ref>{{cite news|url=http://news.bbc.co.uk/sport2/hi/tennis/4590387.stm |title=Serbian starlet shocks Mauresmo |work=BBC News |date=2005-05-28 |accessdate=2012-06-04}}</ref> Ivanovic kết thúc năm 2005 với hạng thứ 16.
 
===2006 - 2008===
Bước đột phá trong năm 2006 của cô là việc đánh bại [[Martina Hingis]] (cựu số 1 thế giới) trong trận chung kết Rogers Cup ở Montreal trước khi đánh bại [[Jelena Jankovic]], [[Katarina Srebotnik]] và [[Dinara Safina]]. Tại giải [[Giải quần vợt Mỹ Mở rộng|Mỹ mở rộng]], cô đã để thua [[Serena Williams]]. Ivanovic kết thúc năm 2006 với hạng 14 ở nội dung đánh đơn và hạng 51 ở nội dung đánh đôi.
Ivanovic khởi đầu năm 2006 tại giải đấu Hopman Cup ở Perth, Australia với tay vợt đồng hương [[Novak Djokovic]], họ vào đến trận chung kết nhưng đã để thua sau đó.<ref>{{cite web|url=http://hopmancup.com/?id=103&NewsId=124 |title=Hyundai Hopman Cup (Official Mixed Teams Competition of the International Tennis Federation) :: News Item |publisher=Hopmancup.com |date=January 5, 2006 |accessdate=July 9, 2010}}</ref> Bước đột phá trong năm 2006 của cô là việc đánh bại cựu số 1 thế giới [[Martina Hingis]] trong trận chung kết Rogers Cup ở Montreal trước khi đánh bại các tay vợt [[Jelena Jankovic]], [[Katarina Srebotnik]] và [[Dinara Safina]]. Tại giải [[Giải quần vợt Mỹ Mở rộng|Mỹ mở rộng]], cô đã để thua [[Serena Williams]] tại vòng 3.
 
Năm 2007, Ivanovic lần đầu lọt vào chung kết [[Grand Slam]] sau khi đánh bại [[Svetlana Kuznetsova|Kuznetsova]] và [[Maria Yuryevna Sharapova|Sharapova]] tại tứ kết và bán kết, tuy nhiên cô đã thất bại trước [[Justine Henin]] trong trận chung kết. Trong năm này, cô giành được 3 danh hiệu vô địch WTAlọtleo lên vị trí thứ 4 vào topcuối 10năm.
 
Năm 2008, Cô đã đánh bại [[Dinara Safina]] để giành chiến thắng tại trận chung kết [[Giải quần vợt Pháp Mở rộng]] và là á quân tại [[Giải quần vợt Úc Mở rộng]].<ref>{{cite news |url=http://edition.cnn.com/2008/SPORT/01/26/tennis.australiawomen/index.html/ |title= Sharapova stuns Serb in Aussie final |accessdate=ngày 1 tháng 7 năm 2008 |publisher=CNN |date=ngày 26 tháng 1 năm 2008 }}</ref> IvanovicVới vuơnchiến thắng này cô đã vươn lên vị trí số 1 thế giới. vàoTuy thángnhiên 6tại giải Wimbledon tiếp đó cô đã sớm thất bại từ vòng 3 khi đang là hạt giống số 1. Sau đó chấn thương ngón tay kéo dài khiến cô buộc phải rút lui tại thế vận hội mùa hè Bắc Kinh.<ref>{{cite news|url=http://news.bbc.co.uk/sport2/hi/olympics/tennis/7548997.stm|title=Injured Ivanovic out of Olympics|accessdate=10 August 2008|date=10 August 2008|work=BBC Sport }}</ref>
 
Sau khi vô địch tại giải Pháp mở rộng năm 2008 và trở thành tay vợt nữ số 1 thế giới, Ivanovic đã có một quãng thời gian dài liên tục sa sút. Nhiều nhà phê bình cho rằng do tâm lý nặng nề, thiếu tự tin của cô.<ref name="theatlantic">{{cite web|url=http://www.theatlantic.com/magazine/archive/2010/09/high-strung/308175/ |title=High Strung |publisher=''The Atlantic'' |date=11 August 2010 |first=Tom |last=Perrotta |accessdate=21 September 2014 }}</ref>
Sau chiến thắng năm 2008, cô đã bị choáng ngợp bởi sự quan tâm <ref>{{chú thích web|url=http://www.nytimes.com/2014/05/26/sports/tennis/off-court-comfort-is-helping-to-revive-ivanovics-game.html |title=Off-Court Comfort Is Helping to Revive Ivanovic's Game |publisher=''The New York Times'' |date=ngày 25 tháng 5 năm 2014 |first=Ben |last=Rothenberg |accessdate=ngày 21 tháng 9 năm 2014 }}</ref> và có một khoảng thời gian liên tục sa sút, đã có lúc cô bị tụt xuống hạng 65 trong bảng xếp hạng tháng 7 năm 2010.<ref>[http://www.sportdw.com/2012/04/ana-ivanovic-heading-back-to-top.html Ana Ivanovic – Heading Back to the Top?] DW on Sport</ref><ref>[http://www.sportdw.com/2010/08/where-did-it-all-go-wrong-sad-demise-of.html Where Did It All Go Wrong: The Sad Demise of Ana Ivanovic] DW on Sport</ref> Ivanovic đã có một số cải tiến trong phong cách chơi của mình sau khi thay huấn luyện viên mới trong năm 2010, cô bắt đầu có lối chơi tự tin hơn, phù hợp hơn và trở lại trong top 20.
 
===2009 - 2013===
Năm 2014 là một năm hồi sinh sự nghiệp của Ivanovic, bắt đầu với chiến thắng tại giải Auckland mở rộng, danh hiệu đánh đơn đầu tiên của cô trong hơn 2 năm, sau đó là các chiến thắng tại các giải Monterrey mở rộng, Aegon Classic và Pan Pacific mở rộng. Ivanovic kết thúc năm 2014 với xếp hạng thứ 5<ref>[http://www.anaivanovic.com/news/ana-rises-5th-road]</ref>
Năm 2009, lần đầu tiên Ivanovic bị tụt khỏi top 20 kể từ tháng 7 năm 2005. Cô kết thúc năm với số trận thắng - thua là 24 - 14, tồi tệ nhất kể từ lúc thi đấu chuyên nghiệp. Trong năm 2010, đã có lúc cô bị tụt xuống hạng 64 trong bảng xếp hạng (tháng 7 năm 2010) sau khi để bị thua ngay từ vòng đầu tiên của giải Wimbledon.<ref>[http://www.sportdw.com/2012/04/ana-ivanovic-heading-back-to-top.html Ana Ivanovic – Heading Back to the Top?] DW on Sport</ref><ref>[http://www.sportdw.com/2010/08/where-did-it-all-go-wrong-sad-demise-of.html Where Did It All Go Wrong: The Sad Demise of Ana Ivanovic] DW on Sport</ref>
 
Tại giải Úc mở rộng 2010, huyền thoại quần vợt nữ Martina Navratilova nhận xét rằng: "Trong khi cô hoàn toàn không có sự tự tin vào bản thân, cô vẫn chiến đấu cho đến điểm số cuối cùng." Sau đó cô đã thực hiện một số cải tiến phong cách chơi của mình cùng với việc thay một HLV mới trong năm 2010. Kết quả là cô bắt đầu có lối chơi tự tin hơn và trở lại top 20.
 
===2014 - nay===
Năm 2014 là một năm hồi sinh sự nghiệp của Ivanovic, bắt đầu với chiến thắng tại giải Auckland mở rộng, danh hiệu đánh đơn đầu tiên của cô trong hơn 2 năm, sau đó là các chiến thắng tại các giải Monterrey mở rộng, Aegon Classic và Pan Pacific mở rộng. Ivanovic kết thúc năm 2014 với xếp hạng thứ 5.<ref>[http://www.anaivanovic.com/news/ana-rises-5th-road]</ref>
 
== Cuộc sống cá nhân ==
Hàng 51 ⟶ 59:
Ana được sinh ra tại Belgrade, [[Cộng hòa Liên bang Xã hội chủ nghĩa Nam Tư|Nam Tư]], nay là [[Serbia]]. Mẹ cô, Dragana là một luật sư và thường có mặt trong tất cả các trận đấu của cô. Cha cô, Miroslav là một thương nhân, cũng thường tham dự các trận đấu của cô nếu có thể. Ana có một cậu em trai, Miloš thường cùng chơi bóng rổ với cô.<ref>{{chú thích web |url=http://www.anaivanovic.com/media/press/6/anaivanovic_pressrelease_english.pdf |title=Ana Ivanovic – the fastest mover in the world |accessdate=ngày 13 tháng 6 năm 2007 |format=PDF |work=Ana Ivanovic.com |archiveurl = http://web.archive.org/web/20070703163437/http://www.anaivanovic.com/media/press/6/anaivanovic_pressrelease_english.pdf <!-- Bot retrieved archive --> |archivedate = ngày 3 tháng 7 năm 2007}}</ref>
 
Bên cạnh sự nghiệp quần vợt, Ana cũng đang là sinh viên ngành tài chính của trường đại học ở [[Beograd|Belgrade]] và cô còn học thêm tiếng [[Tây Ban Nha]] trong thời gian rảnh.<ref name="adopted">{{cite news|last=Newman |first=Paul |url=http://www.independent.co.uk/sport/tennis/ivanovic-grows-into-role-of-australias-adopted-daughter-773713.html |title=Ivanovic grows into role of Australia's adopted daughter |work=The Independent |date=2008-01-25 |accessdate=2012-06-04 |location=London}}</ref> Người đã dìutruyền dắtcảm hứng cho cô khi mới vào sự nghiệp chính tay vợt đồng hương [[Monica Seles]], một tay vợt nổi tiếng thập niên 1990, và cô cũng rất khâm phục [[Roger Federer]].
 
Ana từng đánh đôi với [[Maria Kirilenko]], là bạn của cô. Ngoài ra cô cũng còn nhiều người bạn cũng nổi tiếng trong giới Tennis như [[Daniela Hantuchová|Daniela Hantuchova]], [[Svetlana Kuznetsova]], [[Sanja Ancic]], [[Rafael Nadal]], [[Tatiana Golovin]] và tay vợt đồng hương [[Novak Djokovic]] (quen nhau khi 5 tuổi).
Hàng 62 ⟶ 70:
Tháng 9, 2014 người ta đã gặp cô nắm tay với thủ quân của [[Đội tuyển bóng đá quốc gia Đức]] [[Bastian Schweinsteiger]] ở New York và sau đó ở nhiều nơi khác.<ref>[http://www.sueddeutsche.de/panorama/aufregung-um-bastian-schweinsteiger-was-ist-da-los-herr-kapitaen-1.2125267 Was ist da los, Herr Kapitän?], SZ, 11.09.2014</ref>
 
== Các trận chungđấu kếttại giải Grand Slam ==
===ĐánhChung đơnkết: 3 (1 nhấtvô địch, 2 nhìá quân)===
{|class="sortable wikitable"
!Kết quả
Hàng 79 ⟶ 87:
|}
 
== Các trận đấu tại WTA Tournament ==
''Để tránh việc nhầm lẫn do sự trùng lặp khi đếm, bảng tổng kết chỉ được cập nhật khi một giải đấu đã hoàn toàn kết thúc. Lần cuối cùng cập nhật là cuối năm 2014''
 
Hàng 302 ⟶ 309:
!4 / 7
!4–7
|}
 
== Các trận chung kết WTA ==
===Nội dung đánh đơn: 23 (15 vô địch, 8 á quân)===
{|class="sortable wikitable"
!width=60|Kết quả
!STT
!Ngày
!width=350|Giải đấu
!width=60|Mặt sân
!width=200|Đối thủ tại chung kết
!Tỷ số
|-
|bgcolor=98FB98|Winner
|1.
|January 15, 2005
|[[Richard Luton Properties Canberra International|Canberra International]], Canberra, Australia
|Hard
|{{flagicon|HUN}} [[Melinda Czink]]
|7–5, 6–1
|-bgcolor=#E9E9E9
|bgcolor=98FB98|Winner
|2.
|August 21, 2006
|[[Canadian Open (tennis)|Canadian Open]], Montréal, Canada
|Hard
|{{flagicon|SUI}} [[Martina Hingis]]
|6–2, 6–3
|-bgcolor=#E9E9E9
|bgcolor=#ffa07a|Runner-up
|1.
|February 4, 2007
|[[Pan Pacific Open]], Tokyo, Japan
|Carpet (i)
|{{flagicon|SUI}} [[Martina Hingis]]
|4–6, 2–6
|-bgcolor=#E9E9E9
|bgcolor=98FB98|Winner
|3.
|May 13, 2007
|[[WTA German Open|German Open]], Berlin, Germany
|Clay
|{{flagicon|RUS}} [[Svetlana Kuznetsova]]
|3–6, 6–4, 7–6<sup>(7–4)</sup>
|-bgcolor=#F3E6D7
|bgcolor=#ffa07a|Runner-up
|2.
|June 9, 2007
|[[French Open]], Paris, France
|Clay
|{{flagicon|BEL}} [[Justine Henin]]
|1–6, 2–6
|-bgcolor=#D4F1C5
|bgcolor=98FB98|Winner
|4.
|August 12, 2007
|[[LA Women's Tennis Championships]], Los Angeles, USA
|Hard
|{{flagicon|RUS}} [[Nadia Petrova]]
|7–5, 6–4
|-bgcolor=#D4F1C5
|bgcolor=98FB98|Winner
|5.
|September 30, 2007
|[[Luxembourg Open]], Luxembourg
|Hard (i)
|{{flagicon|SVK}} [[Daniela Hantuchová]]
|3–6, 6–4, 6–4
|-bgcolor=#F3E6D7
|bgcolor=#ffa07a|Runner-up
|3.
|January 26, 2008
|[[Australian Open]], Melbourne, Australia
|Hard
|{{flagicon|RUS}} [[Maria Sharapova]]
|5–7, 3–6
|-bgcolor=#E9E9E9
|bgcolor=98FB98|Winner
|6.
|March 23, 2008
|[[Indian Wells Masters]], Indian Wells, United States
|Hard
|{{flagicon|RUS}} [[Svetlana Kuznetsova]]
|6–4, 6–3
|-bgcolor=#F3E6D7
|bgcolor=98FB98|Winner
|7.
|June 7, 2008
|French Open, Paris, France
|Clay
|{{flagicon|RUS}} [[Dinara Safina]]
|6–4, 6–3
|-bgcolor=#D4F1C5
|bgcolor=98FB98|Winner
|8.
|October 26, 2008
|[[Linz Open]], Linz, Austria
|Hard (i)
|{{flagicon|RUS}} [[Vera Zvonareva]]
|6–2, 6–1
|-bgcolor=#E9E9E9
|bgcolor=#ffa07a|Runner-up
|4.
|March 22, 2009
|Indian Wells Masters, Indian Wells, United States
|Hard
|{{flagicon|RUS}} [[Vera Zvonareva]]
|6–7<sup>(5–7)</sup>, 2–6
|-
|bgcolor=98FB98|Winner
|9.
|October 17, 2010
|Linz Open, Linz, Austria <small>(2)</small>
|Hard (i)
|{{flagicon|SUI}} [[Patty Schnyder]]
|6–1, 6–2
|-bgcolor=#E2FAF7
|bgcolor=98FB98|Winner
|10.
|November 7, 2010
|[[WTA Tournament of Champions]], Bali, Indonesia
|Hard (i)
|{{flagicon|RUS}} [[Alisa Kleybanova]]
|6–2, 7–6<sup>(7–5)</sup>
|-bgcolor=#E2FAF7
|bgcolor=98FB98|Winner
|11.
|November 6, 2011
|WTA Tournament of Champions, Bali, Indonesia <small>(2)</small>
|Hard (i)
|{{flagicon|ESP}} [[Anabel Medina Garrigues]]
|6–3, 6–0
|-
|bgcolor=#ffa07a|Runner-up
|5.
|October 13, 2013
|Linz Open, Linz, Austria
|Hard (i)
|{{flagicon|GER}} [[Angelique Kerber]]
|4–6, 6–7<sup>(6–8)</sup>
|-
|bgcolor=98FB98|Winner
|12.
|January 4, 2014
|[[Auckland Open]], Auckland, New Zealand
|Hard
|{{flagicon|USA}} [[Venus Williams]]
|6–2, 5–7, 6–4
|-
|bgcolor=98FB98|Winner
|13.
|April 6, 2014
|[[Monterrey Open]], Monterrey, Mexico
|Hard
|{{flagicon|SRB}} [[Jovana Jakšić (tennis)|Jovana Jakšić]]
|6–2, 6–1
|-bgcolor=D4F1C5
|bgcolor=ffa07a|Runner-up
|6.
|April 27, 2014
|[[Women's Stuttgart Open|Stuttgart Open]], Stuttgart, Germany
|Clay (i)
|{{flagicon|RUS}} [[Maria Sharapova]]
|6–3, 4–6, 1–6
|-bgcolor=D4F1C5
|bgcolor=98FB98|Winner
|14.
|June 15, 2014
|[[Aegon Classic]], Birmingham, United Kingdom
|Grass
|{{flagicon|CZE}} [[Barbora Záhlavová-Strýcová]]
|6–3, 6–2
|-bgcolor=#E9E9E9
|bgcolor=ffa07a|Runner-up
|7.
|August 17, 2014
|[[Cincinnati Masters]], Cincinnati, United States
|Hard
|{{flagicon|USA}} [[Serena Williams]]
|4–6, 1–6
|-bgcolor=D4F1C5
|bgcolor=98FB98|Winner
|15.
|September 21, 2014
|[[Pan Pacific Open]], Tokyo, Japan
|Hard
|{{flagicon|DEN}} [[Caroline Wozniacki]]
|6–2, 7–6<sup>(7–2)</sup>
|-bgcolor=D4F1C5
|bgcolor=ffa07a|Runner-up
|8.
|January 10, 2015
|[[Brisbane International]], Brisbane, Australia
|Hard
|{{flagicon|RUS}} [[Maria Sharapova]]
|7–6<sup>(7–4)</sup>, 3–6, 3–6
|}
 
===Nội dung đánh đôi: 1 (Á quân)===
{|class="sortable wikitable"
!width=60|Kết quả
!STT
!Ngày
!width=200|Giải đấu
!width=60|Mặt sân
!Đồng đội
!Đối thủ
!Tỷ số
|-
|bgcolor=#ffa07a|Runner-up
|1.
|June 19, 2006
|[[Rosmalen Grass Court Championships]], 's-Hertogenbosch, Netherlands
|Grass
|{{flagicon|RUS}} [[Maria Kirilenko]]
|{{flagicon|CHN}} [[Yan Zi (tennis)|Yan Zi]]<br>{{flagicon|CHN}} [[Zheng Jie]]
|6–3, 2–6, 2–6
|}