Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Lương Kính Đế”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
n clean up, replaced: phụ thân → cha (3), mẫu thân → mẹ, Mẫu thân → Mẹ using AWB
Dòng 30:
 
== Bối cảnh ==
Tiêu Phương Trí sinh năm 544, trong thời gian trị vì của tổ phụ Lương Vũ Đế, còn phụ thâncha [[Tiêu Dịch]] của ông khi đó có tước Tương Đông vương. Mẫu thânMẹ của ông là [[Hạ Vương Phong|Hạ quý phi]]- thiếp của Tiêu Dịch. Ông là cửu tử của phụ thâncha. Năm 549, Tiêu Phương Trí được phong là Hưng Lương hầu, song có lẽ là do phụ thâncha ông sách phong do Kiến Khang năm đó đã thất thủ trước phản tướng [[Hầu Cảnh]].
 
Năm 552, sau khi Tiêu Dịch đánh bại Hầu Cảnh và đoạt lấy hoàng vị, tức Nguyên Đế, ông ta đã sách phong cho Tiêu Phương Trí là Tấn An vương, và phong Hạ quý phi là Tấn An vương quốc thái phi. Năm 553, Tiêu Phương Trí được thụ hàm tướng và trở thành thứ sử của Giang châu (江州, nay thuộc [[Giang Tây]]), song khi đó ông mới chín tuổi.
Dòng 41:
 
== Trị vì ==
Kính Đế tôn mẫu thânmẹ Hạ quý phi làm hoàng thái hậu và phong Vương vương phi làm hoàng hậu. Tuy nhiên, quyền lực thực tế nằm trong tay Trần Bá Tiên.
 
Chiến tranh đã nổ ra ngay sau khi Kính Đế đăng cơ, các tướng trung thành với Vương Tăng Biện như Từ Tự Huy (徐嗣徽), Nhâm Ước (任約), [[Hầu Thiến]] (侯瑱), nữ tế của Vương là [[Đỗ Kham]] (杜龕), và huynh đệ của Vương là Vương Tăng Trí (王僧智), đều nổi dậy chống lại Trần Bá Tiên; Từ Tự Huy và Nhâm Ước tìm kiếm viện trợ của Bắc Tề. Vào mùa đông năm 555, quân Bắc Tề vượt Trường Giang vào lãnh thổ Lương để giúp Từ Tự Huy và Nhâm Ước, song ngay sau đó, liên quân đã lâm vào thế bế tắc ở gần Kiến Khang.