Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Boston”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n General Fixes
n clean up, replaced: ! → ! (3), được được → được using AWB
Dòng 97:
 
[[Tập tin:Haymarket Square.JPG|thumb|Quảng trường Haymarket, 1909]]
Đến đầu và giữa thế kỷ 20, thành phố trải qua suy tàn do các nhà máy trở nên cũ nát và lạc hậu, và các doanh nghiệp chuyển ra khỏi khu vực vì giá lao động ở những nơi khác rẻ hơn.{{sfn|Bluestone|Stevenson|2002|p=13}} Boston đối phó bằng các dự án hồi phục đô thị khác nhau theo chỉ đạo của Cục Tái thiết Boston (BRA), thể chế được được thành lập vào năm 1957. Năm 1958, BRA bắt đầu dự án nhằm cải tạo khu phố West End có tính lịch sử. Hành động phá hủy trên quy mô lớn gặp phải phản đối dữ dội của công chúng.<ref>{{cite news |author=Collins, Monica |url=http://www.boston.com/news/globe/magazine/articles/2005/08/07/born_again/ |title=Born Again |work=The Boston Globe |date=2005-08-07|accessdate=2007-05-08}}</ref> BRA sau đó tái thẩm định cách tiếp cận của họ đối với cải tạo đô thị trong những dự án tương lai, kể cả việc xây dựng Trung tâm Chính phủ. Năm 1965, Trung tâm Y tế Columbia Point tại khu phố Dorchester trở thành trung tâm y tế cộng đồng đầu tiên tại Hoa Kỳ được mở cửa. Trung tâm y tế này vẫn hoạt động và đến năm 1990 thì trở thành Trung tâm y tế cộng đồng Geiger-Gibson.<ref>{{chú thích sách | last=Roessner | first=Jane | title=A Decent Place to Live: from Columbia Point to Harbor Point – A Community History | publisher=Northeastern University Press | location=Boston | year=2000 | page=80 | isbn=978-1-55553-436-3}}</ref> Khu liên hiệp Columbia Point được tái thiết và phục hưng thành một cộng đồng thu nhập hỗn hợp mang tên Harbor Point Apartments từ năm 1984 đến năm 1990.<ref name="Roessner">Cf. Roessner, p.293. "The HOPE VI housing program, inspired in part by the success of Harbor Point, was created by legislation passed by Congress in 1992."</ref>
 
Đến thập niên 1970, kinh tế thành phố bùng nổ sau 30 suy sụp. Một lượng lớn nhà cao tầng được xât dựng tại Financial District và tại Back Bay của Boston trong giai đoạn này.{{sfn|Kennedy|1994|p=195}} Sự bùng nổ này tiếp tục cho đến giữa thập niên 1980. Thành phố trải qua xung đột khởi đầu từ năm 1974 do các "xe buýt phế trừ cách ly chủng tộc", dẫn đến náo động và bạo lực quanh các trường công trong suốt thập niên 1970.{{sfn|Kennedy|1994|pp=194–195}}
Dòng 239:
{| class="wikitable" border="1"
|+ Thành phần chủng tộc/dân tộc
! Chủng tộc/Dân tộc !! 2010 <ref name="quickfacts"/>!! 1990<ref name="census4"/> !! 1970<ref name="census4"/> !! 1940<ref name="census4"/>
|-
| Da trắng (bao gồm Da trắng Hispanic)|| 53,9% || 62,8% || 81,8% || 96,7%