Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Ban-thiền Lạt-ma”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Xqbot (thảo luận | đóng góp)
n robot Thêm: no:Panchen Lama; mỹ phẩm thay đổi
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 1:
{{Phật giáo Tây Tạng}}
[[Tập tin:9thPanchen.jpg|nhỏ|trái|[[Ban-thiền Lạt-ma thứ 9]] ([[1883]]–[[1937]])]]
'''Ban-thiền Lạt-ma''' (zh. 班禪喇嘛, bo. ''panchen blama'' པན་ཆེན་བླ་མ་, sa. ''paṇḍitaguru''), là danh hiệu [[Đạt-lại Lạt-ma]] thứ 5 tặng cho thầy mình là vị trụ trì chùa Trát-thập Luân-bố (zh. 札什倫布寺, bo. ''bkra shis lhun po'' བཀྲ་ཤིས་ལྷུན་པོ་) trong [[thế kỉ 17]]. Vì Đạt-lại Lạt-ma được xem là hoáhóa thân của [[Quán Thế Âm]] nên lúc đó Ban-thiền Lạt-ma được gọi là hoáhóa thân của Phật [[A-di-đà]]. Như dòng Đạt-lại, dòng Ban-thiền cũng được xem là một dòng tái sinh ([[Châu-cô]], bo. ''tulku'' སྤྲུལ་སྐུ་) nhưng Ban-thiền Lạt-ma không có trách nhiệm lĩnh đạo chính trị. Đến [[thế kỉ 20]], Ban-thiền Lạt-ma mới nhận một số nhiệm vụ này.
 
Ban-thiền Lạt-ma giữ chức cao thứ hai trong trường phái [[Cách-lỗ phái|Cách-lỗ]] sau Đạt-lại Lạt-ma. Dòng tái sinh Ban-thiền Lạt-ma giữ nhiệm vụ đi tìm hoáhóa thân mới của Đạt-lại Lạt-ma và ngược lại. Việc đi tìm hoáhóa thân của Ban-thiền Lạt-ma, hay nói chung là việc tìm bất cứ hoáhóa thân nào, luôn luôn là một nghi lễ tôn giáo và Đạt-lại Lạt-ma là người lựa chọn quyết định. Nghi thức này đã có truyền thống từ Đạt-lại Lạt-ma thứ 5 là [[La-bốc-tạng Gia-mục-thố]] ([[1617]]-[[1682]]) gọi thầy mình là La-tang Khúc-kết (zh. 羅桑曲結, bo. ''lobsang choekyi gyaltsen'' བློ་བཟང་ཆོས་ཀྱི་རྒྱལ་མཚན་) là Ban-thiền, nghĩa là một "Đại học giả". Với việc phong hiệu này, ba vị Ban-thiền Lạt-ma tiền thân của vị này cũng được phong danh Ban-thiền. Đạt-lại Lạt-ma thứ 5 cũng xác nhận hoáhóa thân của Ban-thiền Lạt-ma thứ 5. Đạt-lại Lạt-ma thứ 7 xác nhận Ban-thiền Lạt-ma thứ 6, người lại xác nhận Đạt-lại Lạt-ma thứ thứ 8. Cũng như thế, Đạt-lại Lạt-ma thứ 8 xác nhận vị Ban-thiền thứ 7.
 
Ban-thiền Lạt-ma thứ 10 Khước-cát Kiên-tán (zh. 却吉堅贊, bo. ''lobsang trinley choekyi gyaltsen'' (''choekyi gyaltse'')) giữ một vai trò chính trị quan trọng khi theo Đạt-lại Lạt-ma thứ [[14]] lưu vong tại [[Ấn Độ]] năm [[1959]]. Ông bị bắt giam năm [[1968]], được thả ra [[1977]] nhưng bị quản thúc ở [[Bắc Kinh]] cho đến [[1982]]. Năm [[1983]], ông cưới một cô người Hoa và có một đứa con gái, một thái độ nhìn chung rất lạ cho một vị tăng dòng Cách-lỗ. Năm [[1989]], Ban-thiền Lạt-ma chết bất thình lình tại Shigatse, thọ 52 tuổi.