Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Nai sừng tấm miền tây”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Cheers!-bot (thảo luận | đóng góp)
nKhông có tóm lược sửa đổi
n AlphamaEditor Tool, General Fixes
Dòng 15:
}}
'''Nai sừng tấm vùng phía Tây''' ([[tên khoa học]]: ''Alces alces andersoni'') là một phân loài của [[Nai sừng tấm châu Âu]] mà phạm vi sinh sống của chúng ở những khu [[rừng]] phía bắc và rừng rụng lá hỗn hợp trong trong lãnh thổ [[Canada]] và một số lãnh thổ thuộc miền Bắc [[Hoa Kỳ]]. Đây là phân loài lớn thứ hai của [[nai sừng tấm]], chỉ sau loài [[nai sừng tấm Alaska]]. Chúng là động vật rất tích cực trong [[mùa giao phối]] ([[mùa thu]] và [[mùa đông]]) và có thể gây thương tích hoặc giết chết các đối tượng gây ra sự [[khiêu khích]].
 
==Môi trường sống, phạm vi phân bố==
Chúng sinh sinh sống tại những địa điểm như [[British Columbia]], [[Tây Ontario]], phía đông [[Yukon]] và những lãnh thổ phía Bắc, phía Tây Nam [[Nunavut]], phía Bắc [[Alberta]], [[Saskatchewan]], [[Manitoba]], bán đảo phần trên của [[Michigan]], miền Bắc [[Wisconsin]], phía Bắc [[Minnesota]], Đông Bắc [[Dakota]], và một số ở phía Tây [[Alaska]].
Hàng 21 ⟶ 22:
[[Tập tin:Mammals of northern Alaska on the Arctic slope (1956) Alces alces andersoni skull.png|200px|nhỏ|phải|Hình vẽ về sọ của Nai sừng tấm phía Tây]]
Chúng có một [[chế độ ăn uống]] tương tự như các loài khác, bao gồm thảm [[thực vật]] trên cạn và [[chồi]] từ cây như cây [[liễu]] và [[bạch dương]], chúng cũng ăn các loài [[thực vật thủy sinh]] như [[hoa loa kèn]]. Chúng có thể tiêu thụ lên đến 9.770 calo một ngày tương đương khoảng 32 kg (71 lb) thức ăn. Cũng giống như những loài nai sừng tấm khác, Chúng thiếu [[răng cửa]] trên nhưng có tám răng cửa sắc trên hàm dưới nhưng khác với họ hàng của chúng là Nai sừng tấm phía Đông, chúng có một cái lưỡi linh hoạt, nướu răng và đôi môi để giúp nhai [[gỗ]] và thảm thực vật.
 
==Kích thước và trọng lượng==
Những con nai đực trưởng thành cao đến 1,9 đến 2 m (6,2-6,6 ft) tính đến vai. [[Gạc]] của chúng trải rộng và dài đến 1,5-1,7 m (4,9-5,6 ft) chúng cân nặng từ 380–720 kg (840-1,590 lb). Những con cái có chiều cao đến 1,8 m (5 ft 11 in) tính trung bình và cân nặng từ 270–360 kg (600-790 lb).
 
==Cấu trúc xã hội và sinh sản==
Chúng không hình thành liên kết xã hội thành bầy đàn mà sống đơn độc và chỉ tiếp xúc với nhau khhi giao phối hoặc để chiến đấu tìn và bảo vệ một [[bạn tình]]. chúng có mức [[testosterone]] cao và sẽ tấn công bất cứ điều gì mà kích động hoặc gây ra sự sợ hãi cho nó. Điều này bao gồm con người, [[chó sói]], những con nai sừng tấm, và [[gấu]]. Cuộc đối đầu thường xuyên gây ra với kết quả chết người.
Hàng 29 ⟶ 32:
 
Như loài nai sừng tấm khác, những con nai đực giao phối cuộc gọi để thu hút con cái giao phối với hoặc thách thức với con đực khác để giành quyền giao phối. Những con cái đẻ khoảng 1 đến hai con trong một lứa. Sau 10-11 tháng, nai sừng tấm một năm tuổi sẽ bị đuổi ra bởi các bà mẹ của chúng để tự bảo vệ mình.
 
==Săn bắn==
{{Chính|Săn hươu}}
Với dân số khoảng 950.000 cá thể, Nai sừng tấm phía Tây bị săn bắt mỗi mùa thu và mùa đông ở cả [[Canada]] và [[Hoa Kỳ]]. Hạn ngạch (mức săn bắn) hàng năm thay đổi tùy theo ước tính người dân địa phương và thợ săn đã thành công từ mùa săn trước.
 
==Tham khảo==
{{tham khảo}}