Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Kế hoạch Marshall”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
→‎Liên kết ngoài: clean up, replaced: [[Thể loại:Sử kinh tế → [[Thể loại:Lịch sử kinh tế using AWB
n AlphamaEditor Tool, General Fixes
Dòng 3:
'''Kế hoạch Marshall''' (''Marshall Plan'') là một [[kế hoạch]] trọng yếu của [[Hoa Kỳ]] nhằm tái thiết và thiết lập một nền móng vững chắc hơn cho các quốc gia [[Tây Âu]], đẩy lui [[chủ nghĩa cộng sản]] sau [[Chiến tranh thế giới thứ hai|Thế chiến thứ hai]]. Mang tên chính thức "'''Kế hoạch phục hưng Châu Âu'''" (''European Recovery Program'' - ERP), nhưng Kế hoạch Marshall thường được gọi theo tên của [[Bộ trưởng Ngoại giao Hoa Kỳ|Ngoại trưởng Mỹ]] [[George Marshall]], người đã khởi xướng và ban hành kế hoạch. Kế hoạch Marshall là thành quả lao động của các quan chức [[Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ]], trong đó ghi nhận sự đóng góp đặc biệt của [[William L. Clayton]] và [[George F. Kennan]].
 
Kế hoạch tái thiết được phát triển tại cuộc họp mặt của các quốc gia [[Châu Âu]] ngày [[12 tháng 7]] năm [[1947]]. Kế hoạch Marshall đề ra việc viện trợ tương đương cho [[Liên Xô]] và đồng minh của họ, nhưng không được chấp nhận. Kế hoạch được thực thi trong vòng 4 năm, kể từ tháng 7 năm 1947. Trong thời gian đó, có khoảng 17 [[tỷ]] [[đô la Mỹ]] viện trợ kinh tế và hỗ trợ kỹ thuật để giúp khôi phục các quốc gia châu Âu tham gia [[Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế]] - OECD.<ref>Khoảng 13 tỷ đô la so với tổng sản phẩm quốc nội 258 tỷ đô la năm 1948.</ref>. Nhiều quốc gia châu Âu đã nhận được viện trợ trước khi có Kế hoạch Marshall, kể từ năm 1945, cùng với các điều kiện chính trị kèm theo.
 
Cho tới khi kết thúc dự án, nền [[kinh tế]] của các quốc gia nằm trong Kế hoạch, ngoại trừ [[Đức|Tây Đức]], đã phát triển vượt mức trước chiến tranh. Trong vòng hai thập kỷ tiếp đó, nhiều vùng ở Tây Âu tiếp tục đạt được mức tăng trưởng và phồn vinh chưa từng có trước đó. Kế hoạch Marshall cũng được xem là một trong các thành tố của quá trình hội nhập Châu Âu, vì nó xóa bỏ [[thuế quan|hàng rào thuế quan]] và thiết lập các cơ quan điều phối kinh tế tầm cỡ lục địa.
 
Trong những năm gần đây, các sử gia đặt câu hỏi về cả động cơ bên trong cũng như tính hiệu quả chung của Kế hoạch Marshall. Một số sử gia cho rằng hiệu quả của Kế hoạch Marshall thực tế là từ chính sách ''[[laissez-faire]]'' (tạm dịch: ''thả nổi'') cho phép thị trường tự bình ổn qua sự phát triển kinh tế.<ref>Woods, trang 189-191</ref>. Người ta cho rằng [[Tổ chức Cứu trợ và Phục hồi]] của [[Liên Hiệp Quốc]], vốn giúp hàng triệu người tị nạn từ năm 1944 tới 1947, cũng giúp đặt nền móng cho sự phục hồi Châu Âu thời hậu chiến.
 
== Trước khi có Kế hoạch Marshall ==
 
=== Bối cảnh tại Châu Âu ===
[[Tập tin:Hamburg after the 1943 bombing.jpg|nhỏ|300px|Các tòa nhà đổ nát sau cuộc không kích [[Hamburg]]]]
Hàng 16 ⟶ 17:
Từ sau Thế chiến thứ nhất, nền kinh tế châu Âu đã bị tổn thất nặng nề và cuộc khủng hoảng sau thời kỳ thế chiến, kéo dài đến tận [[thập niên 1920]], đã dẫn đến sự bất ổn và suy thoái trên toàn cầu. Nước Mỹ, mặc dù lúc đó đang theo [[chủ nghĩa biệt lập]], cũng cố gắng thúc đẩy tăng trưởng tại châu Âu, chủ yếu là thông qua sự tham gia của các ngân hàng Mỹ. Khi Đức không thể trả nổi các khoản [[bồi hoàn chiến phí]], người Mỹ can thiệp bằng cách nới rộng các khoản vay lớn cho Đức, một món nợ mà người Mỹ không đòi lại được khi họ tham gia Thế chiến thứ hai vào năm 1941.<!--Câu cuối đoạn này khó hiểu quá. Mekong Bluesman trả lời: họ không đòi được vì họ tham gia Thế chiến thứ hai chống lại Đức-->
 
Tại [[Washington, D.C.|Washington]], người ta nhất trí là những sai lầm sau Thế chiến thứ nhất không được phép tái diễn. Bộ ngoại giao dưới thời Tổng thống [[Harry S. Truman]] dồn tâm sức theo đuổi các hoạt động đối ngoại, nhưng [[Quốc hội Hoa Kỳ|Quốc hội]] thì phần nào tỏ ra không quan tâm. Ban đầu, người ta hy vọng là chỉ cần không nhiều tiền lắm cũng đủ để tái thiết châu Âu; và Anh, Pháp, với sự giúp sức từ các thuộc địa của họ, sẽ nhanh chóng khôi phục nền kinh tế của họ. Tuy nhiên, tới năm 1947 vẫn chỉ có rất ít tiến bộ. Và mùa đông giá lạnh liên tục trong mấy năm làm tình hinh vốn đã xấu lại càng xấu hơn. Nền kinh tế châu Âu dường như không phát triển mạnh với tỷ lệ [[thất nghiệp]] cao, lương thực thiếu thốn, dẫn đến các cuộc [[đình công]] và bất ổn trong một số quốc gia. Năm 1947, nền kinh tế châu Âu vẫn còn ở dưới mức trước chiến tranh, và hầu như không có dấu hiệu tăng trưởng. Sản lượng nông nghiệp ở khoảng 83% mức năm 1938, sản xuất công nghiệp là 88%, xuất khẩu chỉ ở mức 59%.<ref>Michael J. Hogan, ''The Marshall Plan'', trang 30.</ref>.
 
Sự thiếu hụt lương thực là một trong những vấn đề trầm trọng nhất. Trước chiến tranh, Tây Âu phụ thuộc vào nguồn lương thực thặng dự từ Đông Âu, nhưng những nguồn đó đã bị chặn lại phía sau [[Bức màn sắt]]. Tình hình trở nên đặc biệt tồi tệ tại Đức, nơi mà theo Alan S. Milward trong năm 1946–47 lượng [[Ca-lo|kilocalorie]] trung bình trên đầu người chỉ là 1.800, không đủ đảm bảo sức khỏe về lâu về dài.<ref>Alan S. Milward, ''The Reconstruction of Western Europe''.</ref>. Các nguồn khác cho biết lượng kilocalorie trong các năm đó thay đổi, có thể thấp đến mức 1.000 và 1.500. [[William Clayton]] thông báo cho Washington là "hàng triệu người đang từ từ chết đói".<ref>Gregory A. Fossedal, ''Our Finest Hour''.</ref>. Một nhân tố cốt yếu khác cho nền kinh tế nói chung là sự thiếu hụt than đá, càng trở nên trầm trọng vì mùa đông lạnh lẽo 1946–47. Tại Đức, các căn hộ không được sưởi ấm, khiến hàng trăm người chết cóng. Tại Anh, tình hình không đến nỗi tồi tệ như vậy, nhưng nhu cầu dân chúng khiến cho sản xuất công nghiệp bị đình trệ hoàn toàn. Một trong những động cơ thúc đẩy kế hoạch trên là lòng nhân đạo muốn chấm dứt những thảm cảnh đó.
 
[[Đức]] nhận được nhiều đề nghị từ các quốc gia Tây Âu đổi lương thực lấy [[than đá]] và sắt thép tối cần thiết khi đó. Nhưng cả [[Ý]] lẫn [[Hà Lan]] đều không thể được bán rau quả mà trước đó họ vẫn bán ở Đức, với hệ quả là Hà Lan phải tiêu hủy một phần đáng kể vụ thu hoạch của mình. [[Đan Mạch]] muốn đổi 150 tấn mỡ lợn một tháng, [[Thổ Nhĩ Kỳ]] muốn đổi hạt dẻ; [[Na Uy]] muốn đổi cá và dầu cá, [[Thụy Điển]] muốn đổi một lượng lớn mỡ. Các quốc gia [[Khối Đồng Minh thời Chiến tranh thế giới thứ hai|Đồng Minh]], tuy nhiên, không muốn để người Đức được mua bán.<ref>Nicholas Balabkins, ''Germany Under Direct Controls: Economic Aspects of Industrial Disarmament 1945 - 1948'', Rutgers University Press, 1964 trang 125</ref>. Trước tình hình đó, Tướng [[Lucius D. Clay]] và [[Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân]] (''Joint Chiefs of Staff'') ngày càng tỏ ra lo lắng trước sự gia tăng ảnh hưởng của chủ nghĩa cộng sản tại Đức, cũng như tình hình thất bại của các nền kinh tế Châu Âu không thể phục hồi mà không có nền công nghiệp Đức, là nền móng mà trước kia họ phải dựa vào. Mùa hè năm 1947, Ngoại trưởng, Tướng George Marshall, dựa vào lý do "cơ sở an ninh quốc gia", cuối cùng đã thuyết phục được Tổng thống Harry S. Truman bãi bỏ chỉ thị JCS 1067 trừng phạt Đức, thay vào đó bằng chỉ thị JCS 1779.<ref>[http://www.usip.org/pubs/peaceworks/pwks49.html The Road Ahead: Lessons in Nation Building from Japan, Germany, and Afghanistan for Postwar Iraq, bởi Ray Salvatore Jennings] tháng 5 năm 2003, Peaceworks No. 49, [[United States Institute of Peace]] trang 14–15</ref>. Tháng 7 năm 1947 chỉ thị JCS 1067, vốn vẫn định hướng cho lực lượng chiếm đóng Mỹ tại Đức nhằm "... không thực hiện bất kỳ bước nào để tiến tới khôi phục nền kinh tế Đức", được thay thế bởi chỉ thị JCS 1779, nhấn mạnh "Một châu Âu trật tự, phồn vinh đòi hỏi phải có sự đóng góp kinh tế từ một nước Đức ổn định và hiệu quả".<ref>[http://time-proxy.yaga.com/time/magazine/article/0,9171,887417,00.html Pas de Pagaille!] Time Magazine, Jul. 28, 1947.</ref>. Chỉ thị JCS 1067 đã có hiệu lực trong vòng hơn hai năm. Những hạn chế áp đặt lên nền sản suất công nghiệp của Đức phần nào trở nên thông thoáng hơn, cho phép sản xuất thép tăng lên từ mức 25% trước chiến tranh<ref name="autogenerated3">[http://www.time.com/time/magazine/article/0,9171,934360,00.html "Cornerstone of Steel"], ''[[Time (tạp chí)|Time Magazine]]'', Januaryngày 21, tháng 1 năm 1946</ref><ref name="autogenerated1">[http://www.time.com/time/magazine/article/0,9171,852764,00.html Cost of Defeat], ''[[Time (tạp chí)|Time Magazine]]'', 8 tháng 4, 1946</ref> tới định mức 50% năng suất trước thế chiến.<ref>[http://www.time.com/time/magazine/article/0,9171,887417,00.html Pas de Pagaille!] Time Magazine, Jul. 28, 1947.</ref>.
 
Nền công nghiệp Đức tiếp tục bị dỡ bỏ, và năm 1949 Thủ tướng Đức [[Konrad Adenauer]] viết thư cho phe Đồng Minh, yêu cầu chấm dứt việc đó, viện dẫn sự trái khoáy trong việc khuyến khích phát triển công nghiệp và việc phá bỏ các nhà máy, cũng như sự mất lòng dân từ chính sách đó.<ref>Dennis L. Bark and David R. Gress. ''A history of West Germany vol 1: from shadow to substance'' (Oxford 1989) trang 259</ref>. Sự ủng hộ cho việc dỡ bỏ các nhà máy lúc này tới chủ yếu từ phía Pháp, và Thỏa thuận Petersberg tháng 11 năm 1949 cho phép giảm tốc độ phá dỡ đi rất nhiều, mặc dù việc tháo dỡ các nhà máy nhỏ tiếp tục cho tới năm 1951.<ref>Dennis L. Bark and David R. Gress. ''A history of West Germany vol 1: from shadow to substance'' (Oxford 1989) trang 260</ref>. Kế hoạch "định mức công nghiệp" đầu tiên, được phe Đồng Minh ký ngày 9 tháng 3 năm 1946, tuyên bố nền công nghiệp nặng của Đức phải giảm xuống 50% mức năm 1938 bằng cách phá bỏ 1.500 [[nhà máy]] có tên trong danh sách.<ref>[[Henry C. Wallich]]. ''Mainsprings of the German Revival'' (1955) trang 348.</ref>. Tháng 1 năm 1946, Hội đồng kiểm soát Đồng Minh áp đặt cơ sở cho nền kinh tế Đức bằng cách đặt hạn mức cho sản xuất [[thép]] của Đức vào khoảng 5,8 triệu tấn một năm, bằng với 25% mức trước chiến tranh.<ref name="autogenerated3" />. Nước Anh, chiếm đóng những vùng sản xuất thép chính, đòi phải giới hạn sản lượng hơn nữa bằng cách đặt một tối đa là 12 triệu tấn thép một năm, nhưng cuối cùng cũng phải chịu theo ý [[Hoa Kỳ|Mỹ]], [[Pháp]] và [[Liên Xô]] (vốn định đặt mức giới hạn 3 triệu tấn trước đó). Các nhà máy thép thừa ra sẽ phải bị phá bỏ. Nước Đức bị đẩy xuống mức sống khi cuộc [[Đại khủng hoảng]] lên tới đỉnh điểm năm 1932<ref name="autogenerated1" /> Sản xuất ô tô bị định ở 10% mức trước thời chiến....<ref>[http://www.trumanlibrary.org/whistlestop/study_collections/marshall/large/documents/index.php?pagenumber=10&documentid=22&documentdate=1947-03-24&studycollectionid=mp&nav=OK The President's Economic Mission to Germany and Austria, Report 3] [[Herbert Hoover]], March, 1947 trang 8</ref>.
 
Kế hoạch "Định mức công nghiệp Đức" được tiếp nối bởi một số kế hoạch mới hơn, kế hoạch cuối cùng được ký vào năm 1949. Tới năm 1950, sau khi thực tế đã hoàn thành các kế hoạch "định mức công nghiệp", người ta dỡ bỏ 706 nhà máy ở Tây Đức và sản lượng thép bị giảm xuống còn 6,7 triệu tấn.<ref>Frederick H. Gareau "Morgenthau's Plan for Industrial Disarmament in Germany" The Western Political Quarterly, Vol. 14, No. 2 (Jun., 1961), trang 517-534</ref>. Vladimir Petrov nhận xét là phe Đồng Minh đã "trì hoãn trong vài năm sự phục hồi kinh tế của lục địa châu Âu bị chiến tranh tàn phá, sự phục hồi mà cuối cùng Mỹ phải tốn hàng tỷ đô la vào đó".<ref>Vladimir Petrov, ''Money and conquest; allied occupation currencies in World War II.'' Baltimore, Johns Hopkins Press (1967) trang 263</ref>. Năm 1951, Tây Đức chấp thuận gia nhập [[Cộng đồng Than Thép châu Âu]] (ECSC) vào năm sau. Điều đó có nghĩa là một số hạn chế về định lượng và sản lượng thực tế do [[Ủy ban quốc tế giám sát vùng Ruhr]] được dỡ bỏ, và vai trò của ủy ban này được tiếp quản bởi ECSC.<ref>[http://digicoll.library.wisc.edu/cgi-bin/History/History-idx?type=article&did=HISTORY.0057.0400.0023&isize=M Information bulletin Frankfurt, Germany: Office of the US High Commissioner for Germany Office of Public Affairs, Public Relations Division, APO 757, US Army, January 1952 "Plans for terminating international authority for the Ruhr", trang 61-62] ([http://digital.library.wisc.edu/1711.dl/History.omg1952Jan main URL])</ref>.
 
=== Bối cảnh chính trị tại Hoa Kỳ ===
Cường quốc duy nhất mà cơ sở hạ tầng không bị thiệt hại là [[Hoa Kỳ]]. Họ tham chiến muộn hơn hầu hết các quốc gia châu Âu, và chỉ bị những tàn phá rất khiêm tốn trên lãnh thổ của mình. Số lượng [[dự trữ vàng]] của Hoa Kỳ vẫn còn nguyên, cũng như cơ sở hạ tầng nông nghiệp và sản xuất, với nền kinh tế lành mạnh. Những năm chiến tranh mang lại thời kỳ phát triển kinh tế mạnh mẽ nhất trong lịch sử, với các nhà máy của Mỹ sản xuất hàng hóa phục vụ cho cả nhu cầu vật tư chiến tranh của Mỹ lẫn đồng minh. Sau chiến tranh, các nhà máy này được nhanh chóng chuyển đổi sang sản xuất vật liệu tiêu dùng, và sự khan hiếm trong chiến tranh được thay thế bởi sự bùng nổ mức tiêu thụ hàng hóa. Sức khỏe về lâu dài của nền kinh tế Mỹ tuy nhiên phụ thuộc vào thương mại, vì để duy trì sự phồn thịnh nó cần xuất khẩu hàng hóa làm ra. Viện trợ từ Kế hoạch Marshall phần lớn sẽ được châu Âu sử dụng để mua vật tư cũng như hàng hóa sản xuất tại Mỹ.
 
Một động cơ quan trọng cho nước Mỹ, và cũng là một sự khác biệt cơ bản so với thời kỳ hậu Thế chiến thứ nhất là sự bắt đầu [[Chiến tranh Lạnh]]. Một số quan chức trong chính phủ Mỹ ngày càng tỏ ra nghi ngờ các hoạt động của [[Liên Xô]]. [[George F. Kennan|George Kennan]], một trong số các lãnh đạo trong việc phát triển kế hoạch, đã dự đoán về sự hình thành thế giới hai cực. Với ông, Kế hoạch Marshall là con cờ chủ đạo của [[học thuyết phong tỏa|học thuyết "phong tỏa"]] (''containment'').<ref>John Lewis Gaddis, [''We Now Know(?)]'', trang 37</ref>. Cũng đáng lưu ý là Kế hoạch Marshall được khởi xướng khi liên minh thời chiến vẫn còn phần nào đoàn kết, Chiến tranh Lạnh chưa bắt đầu và, đối với phần lớn những người hoạch định Kế hoạch Marshall, sự lo ngại Liên Xô không phải là mối lo chủ yếu như trong những năm tiếp theo.
 
Dù vậy, sức mạnh và sự thu hút của các đảng cộng sản bản địa tại chính các quốc gia Tây Âu sở tại khiến Hoa Kỳ cũng phải lo ngại. Tại cả Pháp và Ý, sự nghèo khổ thời hậu chiến như tiếp thêm sinh lực cho các đảng cộng sản, vốn đã đóng vai trò trung tâm cho phong trào kháng chiến trước đó. Các đảng này giành được thắng lợi quan trọng trong các cuộc bầu cử sau thế chiến, với [[Đảng Cộng sản Pháp]] trở thành chính đảng lớn nhất nước Pháp. Mặc dù ngày nay các sử gia coi mối nguy Pháp và Ý rơi vào tay đảng cộng sản là chuyện xa vời,<ref>Gaddis, ''We Now Know''.</ref>, nhưng nó đã được coi là mối đe dọa thực tiễn với các nhà hoạch định chính sách Mỹ lúc đó. Chính phủ Mỹ dưới thời [[Harry S. Truman]] bắt đầu tin vào khả năng này vào năm 1946, đặc biệt với bàn diễn văn "Iron Curtain" (Bức màn sắt) của [[Winston Churchill|Churchill]], đọc trước sự có mặt của Truman. Trong tâm trí họ, Hoa Kỳ cần phải xác định lập trường của họ trên trường quốc tế, nếu không họ sẽ mất đi sự tín nhiệm. Sự trỗi dậy của học thuyết "phong tỏa" lập luận rằng Hoa Kỳ cần phải giúp đỡ thật nhiều cho các quốc gia phi cộng sản để ngăn chặn sự bành trướng ảnh hưởng của Liên Xô. Người ta cũng hy vọng là các quốc gia Đông Âu cũng sẽ gia nhập kế hoạch này, và rút khỏi khối Xô viết đang nổi lên.
 
Thậm chí từ trước khi có Kế hoạch Marshall, Hoa Kỳ đã gửi một lượng lớn viện trợ để giúp châu Âu hồi phục. Khoảng 9 tỷ đô la đã được sử dụng trong khoảng thời gian từ năm 1945 tới 1947. Phần lớn số viện trợ này là viện trợ gián tiếp, đến từ dạng thỏa thuận ''[[lend-lease]]'' liên tiếp, và thông qua nỗ lực của binh sĩ Mỹ sửa chữa hạ tầng cơ sở cũng như giúp người tị nạn. Một số các thỏa thuận hỗ trợ song phương cũng được ký kết, mà quan trọng nhất trong số đó có lẽ là việc hứa hẹn giúp đỡ quân sự cho [[Hy Lạp]] và [[Thổ Nhĩ Kỳ]] theo [[Chủ thuyết Truman|Học thuyết Truman]]. Tổ chức [[Liên Hiệp Quốc]] khi đó mới ra đời cũng tiến hành một loạt các hoạt động cứu trợ nhân đạo, tài trợ hoàn toàn bởi Hoa Kỳ. Các nỗ lực đó có tác động quan trọng, nhưng thiếu tính chất tổ chức trung tâm và thiếu kế hoạch nên không thành công trong việc đáp ứng nhiều nhu cầu căn bản của châu Âu.<ref>[[Tony Judt]], trong ''The Marshall Plan: Fifty Years After,'' biên tập Martin Schain, trang 4.</ref>. Từ năm 1943, Ủy ban Phục hồi và Cứu trợ Liên hiệp quốc (''United Nations Relief and Rehabilitation Administration'' - UNRRA) đã được thành lập để cung cấp viện trợ cho các vùng đất được giải phóng từ [[phe Trục]] sau Thế chiến thứ hai. UNRRA cung cấp hàng tỷ đô la trong các khoản viện trợ, và giúp được khoảng 8 triệu người tị nạn. Tổ chức này dừng hoạt động tại các trại cho người tị nạn vào năm 1947 tại châu Âu, vì dự trù Kế hoạch Marshall sẽ thay thế nó. Nhiều hoạt động của tổ chức này được chuyển giao cho các cơ sở Liên Hiệp Quốc khác.
 
== Ý tưởng ban đầu ==
Từ trước khi có bài diễn văn của Tướng Marshall, một số người đã đặt vấn đề cần lên kế hoạch tái thiết châu Âu. Ngoại trưởng Mỹ [[James F. Byrnes]] đệ trình một phiên bản trước đó của kế hoạch này trong bài diễn văn "Restatement of Policy on Germany" (Tuyên bố chính sách cho nước Đức) tại Nhà hát Opera ở [[Stuttgart]] vào ngày 6 tháng 9 năm 1946. Trong một loạt các báo cáo với tên "The President's Economic Mission to Germany and Austria" (Chương trình kinh tế của Tổng thống cho Đức và Áo), một báo cáo được Tổng thống [[Harry S. Truman]] ủy thác, cựu Tổng thống [[Herbert Hoover]] đã đưa ra một quan điểm nghiêm túc về kết quả chính sách chiếm đóng Đức. Trong báo cáo đó Hoover đề nghị nhiều thay đổi cơ bản trong chính sách chiếm đóng. Thêm vào đó, Tướng [[Lucius D. Clay]] đề nghị với nhà công nghiệp [[Lewis H. Brown]] tiến hành khảo sát nước Đức hậu chiến và phác thảo bản báo cáo "A Report on Germany" (Báo cáo về nước Đức) vào năm 1947, bao gồm nhiều thông tin căn bản liên quan đến các vấn đề mà Đức phải đương đầu, với lời khuyên cho việc tái thiết. Thứ trưởng ngoại giao Mỹ [[Dean Acheson]] cũng có một bài diễn văn quan trọng về vấn đề này, nhưng bị bỏ ngoài tai; và Phó tổng thống [[Alben W. Barkley]] cũng đã lên tiếng về ý tưởng này.
 
Lựa chọn cơ bản khác cho việc sử dụng một lượng tài trợ của Mỹ là lấy chúng từ ngay nước Đức. Năm 1944, ý tưởng này được biết đến với tên gọi [[Kế hoạch Morgenthau]], theo tên Bộ trưởng Tài chính Mỹ là [[Henry Morgenthau, Jr.]] Kế hoạch đó sẽ trích một lượng [[bồi thường chiến phí]] khổng lồ từ nước Đức để tái xây dựng các quốc gia đã bị Đức tấn công tàn phá, và cũng là để ngăn nước Đức không bao giờ có thể vươn dậy được. Một kế hoạch gần như thế là [[Kế hoạch Monnet]] của một viên chức Pháp tên [[Jean Monnet]], kế hoạch này đề nghị dành cho Pháp quyền kiểm soát vùng công nghiệp than đá của Đức là [[Ruhr]] và [[Saar (bảo hộ)|Saar]] để sử dụng các nguồn tài nguyên cho việc nâng sản lượng công nghiệp của Pháp lên mức 150% trước chiến tranh. Năm 1946, các quốc gia Đồng Minh tham gia chiếm đóng Đức đã đồng ý đặt ra các hạn mức nghiêm ngặt về việc bao giờ có thể cho phép nước Đức tái công nghiệp hóa. Định mức cũng được đặt ra về việc bao nhiêu sắt thép và than đá Đức được phép sản xuất. Kế hoạch công nghiệp đầu tiên của Đức, được gọi là "thỏa thuận mức công nghiệp", được ký kết đầu năm 1946, theo đó ngành công nghiệp nặng của Đức phải giảm xuống mức 50% của năm 1938 bằng cách phá hủy 1.500 [[nhà máy]].<ref>[[Henry C. Wallich]], ''Mainsprings of the German Revival'' (1955), trang 348.</ref>. Những vấn đề hiển hiện trong kế hoạch này trở nên rõ ràng vào cuối năm 1946 và thỏa thuận này phải được sửa lại mấy lần, lần cuối cùng là vào năm 1949. Việc phá bỏ các nhà máy của Đức tuy vậy tiếp tục diễn ra cho tới tận năm 1950. Nước Đức từ lâu đã là nhà công nghiệp khổng lồ của châu Âu nên sự khốn khó của họ kéo lùi lại sự phục hồi của châu Âu nói chung. Sự thiếu thốn trầm trọng ở Đức cũng làm cho việc chiếm đóng Đức trở nên hết sức tốn kém, vì quân đội Đồng Minh chiếm đóng Đức phải tự xoay xở lấy phần lớn những vật tư cần thiết. Các yếu tố đó, cộng với sự lên án rộng khắp của công luận sau khi các kế hoạch này bị để lộ cho báo chí, khiến người ta trên thực tế phải bác bỏ Kế hoạch Monnet và Kế hoạch Morgenthau. Tuy nhiên một số ý tưởng của họ phần nào vẫn có đất sống trong chỉ thị JSC 1067 (''Joint Chiefs of Staff Directive 1067''), kế hoạch này trên thực tế là phần cơ bản chính sách chiếm đóng của Mỹ cho tới tháng 7 năm 1947. Các trung tâm công nghiệp mỏ như Saar và [[Silesia]] bị tách khỏi nước Đức, một số ngành công nghiệp dân sự bị phá bỏ để kìm hãm sản lượng, khu công nghiệp Ruhr cũng đứng trước nguy cơ bị tách rời vào cuối năm 1947. Tuy nhiên tới tháng 4 năm 1947, Truman, Marshall và thứ trưởng ngoại giao Mỹ Dean Acheson cuối cùng cũng bị thuyết phục rằng cần phải sử dụng một nguồn viện trợ lớn từ chính nước Mỹ.
 
Ý tưởng về một kế hoạch tái thiết là một sản phẩm của sự dịch chuyển tư tưởng đã bắt đầu xảy ra ở nước Mỹ từ cuộc [[Đại khủng hoảng|Đại suy thoái]]. Cuộc khủng hoảng kinh tế trong [[thập niên 1930]] khiến cho rất nhiều người tin rằng nền [[kinh tế thị trường]] tự do mà không được kìm hãm sẽ không thể nào đảm bảo cho sự phồn thịnh kinh tế. Nhiều người đã góp công sức cho việc thiết lập ra [[Chính sách kinh tế mới (Hoa Kỳ)|Chính sách kinh tế mới]] (''New Deal'') để phục hồi nền kinh tế Hoa Kỳ, giờ đây muốn áp dụng bài học này cho châu Âu. Cùng thời gian đó, cuộc Đại suy thoái cũng cho thấy nguy cơ đến từ hàng rào [[thuế quan]] và chính sách [[bảo hộ mậu dịch|bảo hộ]], tạo nên một niềm tin mạnh mẽ vào sự cần thiết phải có tự do mậu dịch và thống nhất nền kinh tế châu Âu.<ref>Xem ''The Marshall Plan'' của Hogan, trong đó có một thảo luận chi tiết về việc Kế hoạch Marshall là một sản phẩm của Chính sách kinh tế mới</ref>. Không hài lòng với những hậu quả từ Kế hoạch Morgenthau, ngày 18 tháng 3 năm 1947, cựu Tổng thống Mỹ Hoover tuyên bố: "Người ta có ảo tưởng là một nước Đức mới sau sự sáp nhập có thể bị biến thành một 'quốc gia an bình'. Việc này là bất khả thi trừ trường hợp người ta hủy diệt hay cưỡng bức 25 triệu người rời nước Đức".<ref>{{Chú thích web |url=http://www.un.org/Pubs/chronicle/2008/webarticles/080103_marshallplan.html |title=The Marshall Plan at 60: The General’s Successful War On Poverty |accessdate=2008-12-19 |author=Erik Reinert |coauthors=Jomo K. S. |publisher=Liên Hiệp Quốc}}</ref>. Chính sách áp dụng cho nước Đức thay đổi nhanh chóng chỉ vài tháng sau đó và Kế hoạch Morgenthau hoàn toàn bị đảo ngược.
 
== Bài diễn văn ==
Hàng 46 ⟶ 47:
Các cuộc thảo luận công cộng trước đó về sự cần thiết của việc tái thiết hầu như bị lờ đi vì người ta vẫn không rõ là nó có phải là một định hướng chính sách chính thức của Chính phủ Mỹ hay không. Do đó, Chính phủ Mỹ quyết định là mọi nghi hoặc phải được loại bỏ bởi một bài diễn văn quan trọng của [[Bộ trưởng Ngoại giao Hoa Kỳ|Ngoại trưởng Mỹ]] [[George Marshall]]. Marshall đã diễn thuyết trước khóa sinh viên tốt nghiệp [[Đại học Harvard]] vào ngày [[5 tháng 6]] năm [[1947]]. Đứng trước những bực thang của Nhà thờ Memorial tại Vườn Harvard, ông hứa Hoa Kỳ sẽ viện trợ để thúc đẩy sự khôi phục và tái thiết châu Âu. Ông vạch rõ Chính phủ Hoa Kỳ đã sẵn sàng để đóng góp cho sự hồi phục tại Châu Âu. Ông nói: "Điều rất hợp lý là Hoa Kỳ cần phải làm tất cả những gì có thể để giúp mang lại trạng thái lành mạnh cho nền kinh tế thế giới, mà không có nó sẽ không có sự ổn định chính trị và không có nền hòa bình vững chắc. Chính sách của chúng ta là không chống lại bất kỳ quốc gia nào, mà chống lại đói kém, nghèo nàn, tuyệt vọng và hỗn loạn. Bất kỳ chính phủ nào sẵn lòng giúp một tay để tái thiết sẽ nhận được sự trợ giúp toàn tâm toàn ý của nước Mỹ". Marshall tin tưởng chắc chắn rằng ổn định kinh tế sẽ mang lại ổn định chính trị tại châu Âu. Ông đề xuất viện trợ, nhưng các quốc gia châu Âu sẽ phải tự tạo ra các chương trình hành động của chính họ.
 
Bài diễn văn, soạn bởi [[Charles Bohlen]], không có một chi tiết hay con số cụ thể nào. Yếu tố quan trọng nhất của bài diễn văn này là việc kêu gọi các quốc gia châu Âu gặp nhau và tạo ra kế hoạch tái thiết châu Âu, rồi nước Mỹ sẽ cung cấp tài chính cho kế hoạch đó. Chính phủ Mỹ tin rằng kế hoạch này sẽ không nhận được sự đồng thuận từ nhiều người Mỹ và bài diễn văn nhắm chủ yếu vào các thính giả châu Âu. Để bài diễn văn này không rơi vào tay các báo tại Hoa Kỳ, các ký giả đã không được thông báo, và cùng ngày hôm đó Tổng thống Truman đã tổ chức một buổi họp báo để thu hút sự quan tâm từ báo giới Mỹ. Ngược lại, Acheson được phái đi để liên hệ với giới truyền thông châu Âu, đặc biệt là truyền thông Anh, và bài diễn văn được đọc toàn văn trên đài [[BBC]].<ref>{{chú thích sách |author=Charles L. Mee |title=The Marshall Plan |pages=trang 99 |year=1984 |isbn=0671421492 |publisher=Simon & Schuster |location=New York}}</ref><ref>{{chú thích web |url = http://www.marshallfoundation.org/library/oral_histories_miall_interview.html |title=BBC Correspondent Leonard Miall and the Marshall Plan Speech: An Interview |date=19 tháng 9, 1977 |work=The Marshall Foundation |accessdate=2007-08-15}}</ref>.
 
== Liên Xô khước từ tham gia ==
Hàng 56 ⟶ 57:
 
== Quá trình đàm phán ==
Việc biến kế hoạch thành hiện thực đòi hỏi có sự đàm thoại giữa các quốc gia liên quan, đồng thời kế hoạch này cần được thông qua tại [[Quốc hội Hoa Kỳ|Quốc hội Mỹ]]. Vì vậy mười sáu quốc gia đã nhóm họp tại Paris để quyết định viện trợ của Mỹ sẽ ở dưới dạng gì và sẽ được phân chia ra sao. Quá trình đàm phán kéo dài và phức tạp, với mỗi quốc gia đều có mối quan tâm của riêng mình. Bận tâm chính của Pháp là làm sao để Đức không thể tái lập thành một cường quốc mang lại hiểm họa như trước. Các quốc gia [[Benelux]], dù cũng phải gánh chịu ách thống trị của Đức Quốc xã, nhưng đã từ lâu gắn kết với nền kinh tế Đức, hiểu rằng sự phồn vinh của mình tùy thuộc vào việc nước Đức có hồi phục được hay không. Các quốc gia [[Scandinavia]], đặc biệt là [[Thụy Điển]], nhấn mạnh là sự giao thương tồn tại lâu dài giữa họ và các quốc gia [[Đông Âu]] không bị gián đoạn, và sự trung lập của họ không bị xâm phạm. Nước Anh muốn được hưởng qui chế đặc biệt, vì e ngại là nếu họ chỉ được đối xử ngang hàng với các quốc gia bị tàn phá trong chiến tranh, thì có lẽ họ sẽ chẳng nhận được mấy viện trợ. Người Mỹ thì thúc đẩy [[tự do mậu dịch]] và thống nhất châu Âu để tạo nên bức tường thành chống lại [[chủ nghĩa cộng sản]]. Chính quyền Truman, đại diện bởi [[William Clayton]], hứa hẹn với châu Âu là họ sẽ được tự do lập kế hoạch, nhưng chính quyền Mỹ cũng nhắc nhở họ là để kế hoạch có thể được đưa vào thực hiện, nó phải được Quốc hội Mỹ thông qua. Phần lớn Quốc hội Mỹ muốn có tự do mậu dịch và thống nhất châu Âu, nhưng cũng ngần ngại không muốn bỏ quá nhiều tiền ra để trợ giúp Đức.<ref>Cini, p.24 in Schain</ref>.
 
Cuối cùng họ cũng đạt được thỏa thuận và châu Âu gửi một bản kế hoạch tái thiết cho Washington. Theo bản kế hoạch này, châu Âu yêu cầu 22 tỷ đô la viện trợ. Truman cắt giảm số này xuống còn 17 tỷ đô la trước khi đưa ra Quốc hội. Kế hoạch này vấp phải sự phản kháng kịch liệt từ phía đối lập trong Quốc hội, phần lớn là từ phía người của [[Đảng Cộng hòa (Hoa Kỳ)|đảng Cộng hòa]], vốn trủ trương biệt lập và không muốn có một chương trình chi tiêu ngân sách quá nhiều. Đại diện nổi bật nhất của họ là [[Robert A. Taft]]. Kế hoạch này cũng gặp sự phản đối từ cánh tả, với [[Henry A. Wallace]] là người phản đối mạnh nhất. Wallace cho rằng kế hoạch này là hình thức trợ giá cho các nhà xuất khẩu của Hoa Kỳ, và đoán chắc nó sẽ gây ra sự phân cực trên thế giới giữa phương Đông và phương Tây.<ref>Hogan, trang 93.</ref>. Sự phản đối kế hoạch này giảm mạnh bởi cơn sốc gây do cuộc lật đổ chính phủ ở [[Tiệp Khắc]] vào tháng 2 năm 1948. Rất nhanh sau đó một dự thảo 5 tỷ đô la được Quốc hội thông qua với sự ủng hộ đến từ cả hai đảng. Quốc hội Mỹ sau cùng chấp thuận đóng góp 12,4 tỷ đô la trong vòng 4 năm cho Kế hoạch Marshall.<ref name="autogenerated4">Grogin, trang 118</ref>.
 
Ngày 13 tháng 4 năm 1948, Tổng thống Truman ký bản Kế hoạch Marshall thành luật, thiết lập Ủy ban Hợp tác Kinh tế (''Economic Cooperation Administration'' - ECA) để giám sát chương trình này và giao cho Paul G. Hoffman lãnh đạo. Cùng năm, các quốc gia tham gia kế hoạch này ([[Áo]], [[Bỉ]], [[Đan Mạch]], [[Pháp]], [[Đức|Tây Đức]], [[Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland|Anh]], [[Hy Lạp]], [[Iceland]], [[Cộng hòa Ireland|Ireland]], [[Ý]], [[Luxembourg]], [[Hà Lan]], [[Na Uy]], [[Thụy Điển]], [[Thụy Sĩ]], [[Thổ Nhĩ Kỳ]] và [[Hoa Kỳ]]) ký bản thỏa ước thiết lập một cơ qua điều phối viện trợ-tài chính, [[Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế|Tổ chức Hợp tác Kinh tế châu Âu]] (tiền thân của [[Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế]]), do [[Robert Marjolin]] lãnh đạo.
Hàng 68 ⟶ 69:
Tiền từ Kế hoạch Marshall được chuyển cho chính phủ các quốc gia Âu châu. Các quỹ này được đồng quản trị bởi chính quyền sở tại và ECA. Tại mỗi thủ đô các nước châu Âu đều có một phái đoàn ECA, bao gồm những thương gia Hoa Kỳ có vai vế, nắm nhiệm vụ cố vấn trong quá trình thực hiện. Người ta khuyến khích hợp tác phân phối các quỹ hỗ trợ, và tổ chức các hội thảo với các lãnh đạo công đoàn để giám sát nền kinh tế, xem xét những nơi cần được hỗ trợ.
 
Các khoản hỗ trợ từ Kế hoạch Marshall được phần lớn sử dụng mua hàng hóa từ Mỹ. Các quốc gia châu Âu gần như đã khánh kiệt nguồn [[Dự trữ ngoại hối nhà nước|dự trữ ngoại tệ]] trong thời chiến, và tiền từ Kế hoạch Marshall gần như là nguồn tài chính duy nhất mà họ có được để nhập khẩu hàng hóa từ nước ngoài. Ban đầu, đồ nhập khẩu bao gồm chủ yếu là những nhu yếu phẩm như lương thực và xăng dầu, nhưng về sau, hàng hóa chuyển sang các vật tư thiết yếu cho quá trình tái thiết, như mục tiêu ban đầu vạch ra. Những năm về sau, dưới áp lực của Quốc hội Mỹ và sự bùng phát của [[Chiến tranh Triều Tiên]], một lượng lớn viện trợ được dùng để tái vũ trang quân đội các quốc gia Tây Âu. Trong khoảng 13 tỷ đô la được dành ra cho tới giữa năm 1951, 3,4 tỷ đô la được dùng để nhập nguyên liệu thô và hàng bán thành phẩm; 3,2 tỷ đô la dành cho lương thực, thực phẩm và phân bón; 1,9 tỷ mua máy móc, xe cộ và thiết bị; 1,6 tỷ cho xăng dầu.<ref>Hogan, trang 415</ref>.
 
Người ta cũng lập ra các quỹ đối ứng, sử dụng viện trợ từ Kế hoạch Marshall để thiết lập các quĩ tiền tệ bản xứ. Theo các nguyên tắc của ECA, 60% các quĩ đó phải được dùng để đầu tư vào công nghiệp. Điều này rất đáng chú ý tại Đức, nơi các quĩ do chính phủ quản lý đóng một vai trò quan trọng trong việc cho các công ty tư nhân vay tiền để tiến hành tái thiết. Các quĩ này đóng vai trò trung tâm trong việc tái công nghiệp hóa nước Đức. Ví dụ như trong những năng 1949-1950, 40% các khoản đầu tư cho công nghiệp than ở Đức đến từ các quĩ này.<ref>Crafts, Toniolo, trang 464</ref>. Các công ty có nghĩa vụ hoàn trả các khoản vay lại cho chính phủ, và số tiền này sẽ được đem cho một ngành kinh tế khác vay. Quá trình này được tiếp tục cho đến ngày nay dưới sự quản lý của ngân hàng nhà nước KfW. Quỹ Đặc biệt này, khi đó được quản lý bởi Bộ Kinh tế Liên bang, trị giá tới hơn 10 tỷ [[mác Đức|mark Đức]] năm 1971. Năm 1997, nó lên tới 23 tỷ mark. Nhờ vào hệ thống cho vay quay vòng, quỹ này cho tới năm 1995 đã có thể dành các khoản vay lãi xuất thấp cho người dân Đức với tổng trị giá lên tới 140 tỷ mark. Khoảng 40% còn lại của quỹ đối ứng được dùng để trả nợ, bình ổn tiền tệ, hoặc đầu tư vào các chương trình phi công nghiệp. Nước Pháp sử dụng các quỹ đối ứng này rộng rãi nhất, dùng chúng để cắt giảm thâm hụt ngân sách. Tại Pháp và hầu hết các quốc gia khác, nguồn tiền từ các quỹ đối ứng được gộp vào tổng thu ngân sách nhà nước, chứ không được dùng để quay vòng vốn như ở Đức.
 
Một chương trình ít tốn kém hơn rất nhiều, mà cũng hết sức hiệu quả, do ECA đề ra, là Chương trình Hỗ trợ kỹ thuật. Chương trình này tài trợ cho các nhóm kỹ sư và các nhà công nghiệp châu Âu du lịch Hoa Kỳ, tham quan hầm mỏ, nhà máy, lò luyện kim... để họ có thể bắt chước các tiến bộ mà Hoa Kỳ đã đạt được khi trở về nước. Cùng thời gian, hàng trăm chuyên viên kỹ thuật Hoa Kỳ cũng được gửi sang châu Âu để hỗ trợ.
Hàng 129 ⟶ 130:
Ban đầu, người ta dự tính sẽ kết thúc Kế hoạch Marshall vào năm 1953. Nỗ lực nhằm gia hạn kế hoạch này bị ngưng lại do phí tổn ngày càng gia tăng của cuộc [[Chiến tranh Triều Tiên]] và quá trình tái vũ trang. Các thành viên Đảng Cộng hòa Mỹ phản đối kế hoạch này cũng thắng cử trong cuộc bầu bầu cử Quốc hội Mỹ năm 1950, và sự phản đối của phe bảo thủ với kế hoạch này lại được khơi lại. Vì vậy, chương trình này chấm dứt vào năm 1951, dù viện trợ của Mỹ dưới nhiều hình thức khác nhau tiếp tục tồn tại sau đó.
 
Trong những năm từ 1948 cho tới 1952, Châu Âu phát triển nhanh chưa từng thấy. Sản lượng công nghiệp tăng 35%. Sản xuất nông nghiệp vượt đáng kể so với mức trước chiến tranh.<ref name="autogenerated4" />. Tình trạng nghèo đói cùng cực ngay sau khi chiến tranh biến mất. Châu Âu bước vào một thời kỳ tăng trưởng chưa từng có kéo dài đến hai thập kỷ, cho phép chất lượng cuộc sống được cải thiện không ngờ. Giữa các sử gia có nhiều cuộc tranh luận diễn ra về việc có bao nhiêu phần của thành tích này là do Kế hoạch Marshall. Phần lớn trong số họ bác bỏ ý kiến rằng kế hoạch này là thành tố thần diệu duy nhất giúp khôi phục châu Âu, vì có nhiều bằng chứng cho thấy sự hồi phục nói chung đã tự bắt đầu. Phần lớn trong số họ cho là Kế hoạch Marshall chỉ tăng tốc sự hồi phục, chứ không khởi xướng quá trình đó.
 
Ảnh hưởng chính trị của Kế hoạch Marshall có lẽ cũng quan trọng không kém ảnh hưởng kinh tế. Viện trợ từ Kế hoạch Marshall giúp các quốc gia Tây Âu nới lỏng các biện pháp khắc khổ và chế độ phân phối, giảm thiểu bất mãn và mang lại ổn định chính trị. Ảnh hưởng của [[chủ nghĩa cộng sản]] tại Tây Âu bị giảm sút mạnh mẽ, trên toàn khu vực, các đảng cộng sản mất dần sự ủng hộ của dân chúng trong những năm tiếp theo của Kế hoạch Marshall. Các mối quan hệ thương mại được gây dựng bởi chương trình này giúp dựng lên [[NATO|Liên minh Bắc Đại Tây Dương]], tồn tại suốt thời kỳ [[Chiến tranh Lạnh]]. Cùng lúc, việc các quốc gia Đông Âu không tham dự chương trình này cũng cho thấy các dấu hiệu rõ rệt đầu tiên về sự phân liệt tại Châu Âu.
Hàng 135 ⟶ 136:
Kế hoạch Marshall cũng đóng một vai trò quan trọng trong quá trình hòa nhập châu Âu. Cả các nhà lãnh đạo Mỹ và nhiều nhà lãnh đạo châu Âu tin rằng sự hòa nhập là cần thiết để đảm bảo cho hòa bình và phồn vinh của châu Âu, và sử dụng Kế hoạch Marshall như một nguyên tắc chỉ đạo để khuyến khích sự hòa nhập. Trong một chừng mực nào đó, nỗ lực này thất bại, và [[Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế|OEEC]] chưa bao giờ vươn lên ngoài tầm một tổ chức hợp tác kinh tế. Thay vào đó, [[Cộng đồng Than Thép châu Âu]], đáng lưu ý là không bao gồm Anh, lại lớn mạnh để trở thành [[Liên minh châu Âu]]. Tuy nhiên, OEEC đóng vai trò thử nghiệm và chuẩn bị cho cấu trúc và bộ máy quan chức sau này của Tổ chức kinh tế châu Âu EEC. Kế hoạch Marshall, gắn liền với hệ thống tiền tệ mang tên [[Hệ thống Bretton Woods|Bretton Woods]], cũng đảm bảo tự do thương mại trên toàn Âu châu.
 
Trong khi một số sử gia ngày nay cảm thấy việc ca ngợi chương trình này có phần thái quá, thì người ta vẫn nhìn nhận nó một cách tích cực, và nhiều người cho rằng một chương trình tương tự có thể sẽ có ích cho nhiều khu vực khác trên thế giới. Sau khi chủ nghĩa cộng sản sụp đổ, có một số đề nghị về "Kế hoạch Marshall cho Đông Âu" để khôi phục khu vực này. Những người khác thì đề nghị một Kế hoạch Marshall cho Châu Phi, và Phó Tổng thống Mỹ [[Al Gore]] thì đề xuất [[Kế hoạch Marshall toàn cầu]].<ref>Các đề xuất dạng Kế hoạch Marshall cho các khu vực khác của thế giới là một ý tưởng quay đi quay lại nhiều lần. Ví dụ như [[Tony Blair]] và [[Gordon Brown]] đề cập đến mục tiêu giúp đỡ Châu Phi của họ như "một Kế hoạch Marshall."[http://www.guardian.co.uk/g8/story/0,13365,1498591,00.html]. Sau khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, nhiều người tin rằng Đông Âu cần một chương trình tái thiết, ví dụ như tại đây [http://www.commentarymagazine.com/Summaries/V89I1P19-1.htm].</ref>. Cụ từ "Kế hoạch Marshall" đã trở thành một phép ẩn dụ cho bất kỳ một chương trình tầm cỡ quốc gia nhằm giải quyết một vấn đề xã hội nhất đinh. Nó thường được sử dụng khi nói việc chính phủ bỏ tiền ra để cứu cho một thất bại trong khu vực tư nhân.
 
Nền kinh tế Tây Đức phục hồi một phần là nhờ vào viện trợ kinh tế từ Kế hoạch Marshall, nhưng phần lớn là nhờ vào cuộc cải cách tiền tệ năm 1948 thay thế đồng Reichsmark bằng đồng [[mác Đức|mark]], chặn đứng nạn [[lạm phát]] leo thang. Hành động củng cố nền kinh tế Đức này vốn bị tuyệt đối ngăn cấm trong khoảng thời gian hai năm mà chỉ thị JCS 1067 (của phe Đồng Minh chiếm đóng Tây Đức) có hiệu lực. Quá trình giải thể công nghiệp than và thép của Tây Đức do phe Đồng Minh thực hiện cuối cùng cũng chấm dứt vào năm 1951. Như vậy, Kế hoạch Marshall chỉ là một trong số nhiều thành tố đằng sau sự phục hồi kinh tế Đức.<ref>[http://www.econlib.org/library/enc/GermanEconomicMiracle.html Henderson]</ref><ref name="autogenerated2">[http://www.germany.info/relaunch/culture/history/marshall.html Stern]</ref>. Dù vậy, tại Đức huyền thoại về Kế hoạch Marshall vẫn còn được lưu truyền. Theo cuốn ''Marshall Plan 1947–1997 A German View'' bởi Susan Stern, nhiều người Đức vẫn còn tin là nước Đức là quốc gia duy nhất hưởng lợi từ chương trình này, rằng nó bao gồm những khoản viện trợ cho không gồm những món tiền lớn, rằng chương trình này là chương trình độc nhất mang lại sự phục hồi kinh tế nước Đức trong [[thập niên 1950]].<ref name="autogenerated2"/>.
 
== Hoàn trả ==
Hàng 156 ⟶ 157:
 
== Chỉ trích ==
 
=== Những chỉ trích ban đầu ===
Những lời chỉ trích ban đầu đến từ phía một số nhà kinh tế theo chủ nghĩa tự do. [[Wilhelm Röpke]], người có ảnh hưởng lớn đến Bộ trưởng Kinh tế và Kỹ thuật Đức [[Ludwig Erhard]] trong kế hoạch phục hưng kinh tế của ông này, tin rằng sự phục hồi kinh tế nằm trên việc hủy bỏ chế độ kinh tế chỉ huy tập trung, tái lập kinh tế thị trường tự do ở Châu Âu, đặc biệt là tại các quốc gia trước đó tồn tại [[chủ nghĩa phát xít]] và nền kinh tế lũng đoạn bởi các tập đoàn đại tư bản. Röpke chỉ trích Kế hoạch Marshall là đã ngăn sự chuyển đổi sang thị trường tự do bằng cách trợ giúp hệ thống kinh tế yếu kém đương thời. Erhard đưa lý thuyết của Röpke vào thực hiện, và sau này công nhận những thành công rực rỡ của nền kinh tế Tây Đức là nhờ vào ảnh hưởng của Röpke.<ref>Erhard, trang 22</ref> [[Henry Hazlitt]] thì chỉ trích Kế hoạch Marshall trong cuốn sách xuất bản năm 1947 của ông: ''Will Dollars Save the World?'', lập luận rằng sự hồi phục kinh tế phải đến từ việc dành dụm, tích lũy của cải và công ty tư nhân, chứ không phải thông qua việc hỗ trợ một khoản tiền mặt khổng lồ. [[Ludwig von Mises]] cũng chỉ trích Kế hoạch Marshall năm 1951, vì tin rằng "Sự trợ cấp của Mỹ khiến cho các chính phủ châu Âu có thể che giấu phần nào các ảnh hưởng tai hại của các chính sách mang tính xã hội mà họ thực hiện." Ông cũng chỉ trích viện trợ nước ngoài nói chung, cho rằng nó tạo ra kẻ thù ý thức hệ, thay vì bạn hàng kinh tế, vì nó bóp nghẹt nền kinh tế tự do.<ref>von Mises</ref>