Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Cá sấu sông Nin”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n AlphamaEditor Tool, General Fixes
Dòng 28:
Các [[lỗ mũi]], [[mắt]] và [[tai]] nằm ở phần đỉnh của đầu chúng, vì thế các phần còn lại của cơ thể có thể che giấu dưới nước. Màu sắc cũng giúp chúng ngụy trang rất tốt: Những con non có màu xám, xanh ôliu sẫm hoặc nâu, với các dải màu nằm ngang sẫm hơn tên cơ thể và đuôi. Khi chúng trưởng thành thì màu của chúng sẫm hơn và các dải màu nằm ngang mờ dần đi, đặc biệt là các dải màu trên cơ thể. Lớp da dưới bụng màu vàng và được sử dụng để chế tạo da cá sấu chất lượng cao.
 
Cá sấu sông Nin thông thường trườn dọc theo bụng của chúng, nhưng chúng có thể "nhảy cao". Các cá thể nhỏ hơn có thể phóng nhanh, và thậm chí cả các cá thể lớn hơn cũng có khả năng tăng tốc độ đột biến đáng ngạc nhiên, đạt tới 12–14  km/h (7,5-8,5 dặm/h). Chúng có thể bơi khá nhanh bằng cách chuyển động cơ thể và đuôi của chúng theo đường hình sin, và chúng có thể duy trì kiểu chuyển động này khá lâu.
 
Chúng có [[tim]] 4 ngăn, giống như [[chim]], điều đó rất có hiệu quả trong việc chuyên chở và cung cấp [[ôxy]] cho máu của chúng. Thông thường chúng chỉ lặn trong vài phút, nhưng có thể ẩn mình dưới nước tới 30 phút nếu gặp nguy hiểm, và nếu chúng ngừng hoạt động thì có thể giữ cho hơi thở kéo dài tới 2 giờ dưới nước. Chúng có sự trao đổi chất thuộc hệ [[máu lạnh]], vì thế chúng có thể sống rất lâu giữa hai lần có thức ăn — vì thế khi ăn, chúng có thể ăn một khối lượng thức ăn bằng một nửa khối lượng cơ thể mỗi lần.
Dòng 35:
 
Quai hàm của chúng có khả năng tạo ra một lực mạnh khi chúng bắt giữ con mồi. Miệng của chúng có tổng cộng 64 - 68 [[răng]] hình nón. Trên mỗi hàm có 5 [[răng cửa]], 13 hay 14 răng trên mỗi bên của [[hàm trên]], và 14 hay 15 răng trên mỗi bên của hàm dưới. Cá sấu moiứ sinh nhanh chóng mất đi mảnh da cứng trên đỉnh miệng của chúng (gọi là ''răng trứng'', do chúng sử dụng cái này để phá vỡ vỏ trứng để chui ra khi mới sinh).
 
== Kích thước ==
Cá sấu sông Nin có thể dài tới 5  m (16  ft), ít khi thấy chúng dài tới 5,5  m (18  ft). Cá sấu trưởng thành nặng khoảng 225  kg (500 [[pao|lb]]), và có một số cá thể có thể nặng tới 700  kg (1.500  lb). Giống như các loài cá sấu khác, chúng là [[lưỡng hình theo giới]], với con đực thông thường to hơn con cái khoảng 30%, mặc dù khác biệt này là nhỏ hơn so với các loài cá sấu khác, chẳng hạn [[cá sấu nước mặn]].
 
Người ta cũng thông báo là có các cá thể dài tới 7  m (23  ft) và lớn hơn, nhưng điều này bị nghi ngờ do người ta thường hay thổi phồng các số liệu tổng thể. Người ta vẫn chưa biết tại sao một số cá sấu sông Nin to lớn hơn các cá sấu sông Nin khác, nhưng có lẽ là do chúng có môi trường sống thích hợp hơn. Vì thế cá sấu sông Nin ngày nay trong hoang dã khó có thể phá vỡ các kỷ lục: trước khi diễn ra các cuộc săn bắt trên quy mô lớn trong những năm thập niên 1940 và 1950, các quần thể lớn hơn sinh sống ở các môi trường đầm đất lầy có thể to lớn hơn bây giờ.
 
Có một số chứng cứ cho thấy cá sấu sông Nin ưa thích khí hậu mát mẻ. Các cá sấu sông Nin ở miền nam châu Phi nhỏ hơn, và chỉ dài khoảng 4  m (13  ft). Cá sấu sông Nin lùn cũng tồn tại ở [[Mali]] và [[sa mạc Sahara]], chúng chỉ dài từ 2 – 3 m (6,5 – 10  ft). Chúng suy giảm kích thước có lẽ là do không có môi trường sống lý tưởng, chứ không phải do [[di truyền]].
Người ta cũng thông báo là có các cá thể dài tới 7 m (23 ft) và lớn hơn, nhưng điều này bị nghi ngờ do người ta thường hay thổi phồng các số liệu tổng thể. Người ta vẫn chưa biết tại sao một số cá sấu sông Nin to lớn hơn các cá sấu sông Nin khác, nhưng có lẽ là do chúng có môi trường sống thích hợp hơn. Vì thế cá sấu sông Nin ngày nay trong hoang dã khó có thể phá vỡ các kỷ lục: trước khi diễn ra các cuộc săn bắt trên quy mô lớn trong những năm thập niên 1940 và 1950, các quần thể lớn hơn sinh sống ở các môi trường đầm đất lầy có thể to lớn hơn bây giờ.
 
Có một số chứng cứ cho thấy cá sấu sông Nin ưa thích khí hậu mát mẻ. Các cá sấu sông Nin ở miền nam châu Phi nhỏ hơn, và chỉ dài khoảng 4 m (13 ft). Cá sấu sông Nin lùn cũng tồn tại ở [[Mali]] và [[sa mạc Sahara]], chúng chỉ dài từ 2 – 3 m (6,5 – 10 ft). Chúng suy giảm kích thước có lẽ là do không có môi trường sống lý tưởng, chứ không phải do [[di truyền]].
== Trưởng thành và sinh sản ==
Con đực đạt đến độ tuổi [[trưởng thành sinh dục]] khi chúng dài khoảng 3  m (10  ft); trong khi con cái thì khi chúng dài 2 - 2,5 m (6,5 – 8  ft). Điều này diễn ra vào khoảng năm thứ 10 cho cả hai giới trong các điều kiện bình thường.
 
Trong mùa [[sinh sản]], con đực hấp dẫn con cái bằng cách gầm rống, đập mõm của chúng xuống nướcr, phun nước ra từ mũi, và phát ra đủ mọi thứ tiếng động. Các con đực to lớn có xu hướng thắng thế hơn. Khi con cái bị hấp dẫn thì cặp cá sấu này cọ xát mặt bên dưới của quai hàm của chúng với nhau. Con cái đẻ [[trứng]] khoảng 2 tháng sau khi giao phối.
 
Việc làm ổ đẻ diễn ra trong [[tháng mười một|tháng 11]] hoặc [[tháng mười hai|tháng 12]], là [[mùa khô]] ở miền bắc châu Phi, và là [[mùa mưa]] ở miền nam. Các chỗ ưa thích làm ổ là các bờ cát, bờ sông hay các chỗ khô ráo. Con cái đào lỗ cách bờ sông vài mét và sâu khoảng 50  cm (20 inch) và đẻ từ 25 đến 80 trứng. Số lượng trứng dao động theo từng quần thể, nhưng trung bình khoảng 50 quả. Các ổ trứng cá sấu có thể rất gần nhau.
 
Khi đẻ trứng xong, con cái phủ lấp trứng bằng cát và bảo vệ chúng khoảng 3 tháng của thời kỳ [[ấp trứng]]. Con đực thường nằm gần đó và cả hai sẵn sàng tán công bất kể người hay động vật nào đến gần trứng của chúng. Con cái chỉ rời ổ khi chúng cần điều chỉnh thân nhiệt bằng cách ngâm mình rất nhanh xuống nước hay tìm chỗ có bóng râm. Mặc dù các ổ trứng được cha mẹ chúng bảo vệ kỹ lưỡng nhưng chúng vẫn bị con người hay các loài [[thằn lằn]] (các loài bò sát thuộc chi ''Varanus'') hay các động vật khác lấy đi khi con mẹ tạm thời vắng mặt.
Hàng 52 ⟶ 54:
Trước khi chào đời con non bao giờ cũng phát ra các tiếng kêu nhỏ, đây là tín hiệu để con mẹ phá bỏ ổ. Cả hai con mẹ và cha có thể đưa trứng vào miệng và lăn chúng giữa [[lưỡi]] và [[vòm miệng]] trên của chúng để giúp con sơ sinh phá vỡ lớp vỏ trứng để chui ra. Sau khi chúng sinh ra, con mẹ sẽ dẫn chúng xuống nước hoặc đem chúng xuống trong miệng của mình.
 
Cá sấu sông Nin có sự xác định [[giới tính phụ thuộc nhiệt độ]] (TSD), có nghĩa là giới tính của con sơ sinh sẽ không phụ thuộc vào di truyền mà phụ thuộc vào [[nhiệt độ]] trung bình trong khoảng giữa của thời kỳ ấp trứng của chúng. Nếu nhiệt độ trong ổ là thấp hơn 31,7 [[độ Celsius|°C]] (89,1 [[độ Fahrenheit|°F]]), hay cao trên 34,5  °C (94,1  °F), con non sinh ra sẽ là con cái. Con đực chỉ có thể sinh ra khi nhiệt độ nằm trong khoảng hẹp chỉ 2,8 độ (31,7 - 34,5).
 
Con non dài khoảng 30  cm (12 inch) khi mới sinh. Con mẹ sẽ bảo vệ chúng cho đến khi chúng được 2 năm tuổi, và nếu có nhiều ổ trứng trong cùng một khu vực, các con mẹ có thể tạo ra ''crèche''. Trong thời gian này, các con mẹ có thể bảo vệ các con của mình bằng cách cho chúng vào trong miệng hoặc trong [[cổ họng]]. Vào cuối năm thứ hai, con non sẽ dài khoảng 1,2  m (4  ft), và sẽ dời bỏ khu vực ổ, tránh xa lãnh thổ của các con cá sấu già và lớn hơn.
 
[[Tuổi thọ]] của cá sấu sông Nin chưa được xác định rõ, nhưng các loài to lớn như cá sấu sông Nin thường sống lâu hơn và có tuổi thọ khoảng 70 năm.
 
== Thức ăn và thói quen ăn uống ==
Con sơ sinh ăn [[côn trùng]] và các loài [[động vật không xương sống]] nhỏ dưới nước, và nhanh chóng thích nghi với các thức ăn từ động vật [[động vật lưỡng cư|lưỡng cư]], [[động vật bò sát|bò sát]] và [[chim]]. Tuy nhiên, 70% thức ăn của cá sấu sông Nin là [[cá]], mặc dù những con cá sấu lớn có khả năng ăn thịt gần như bất kỳ [[động vật có xương sống]] nào khi chúng đi uống nước, ngoại trừ chỉ có [[voi]] và [[hà mã]] trưởng thành. Chúng cũng ăn thịt [[ngựa vằn]], [[hà mã]] non, [[trâu]], [[linh dương]] như [[gnu (động vât)|gnu]] (phát âm ''nu'' - các loài động vật thuộc chi ''Connochaetes'', trông giống như [[bò]]), và thậm chí cả các động vật lớn thuộc [[họ Mèo]] và các con cá sấu khác.
Hàng 74 ⟶ 77:
 
Chúng được tìm thấy ở các vùng của châu Phi về phía nam [[sa mạc Sahara]], ở [[Madagascar]] và dọc theo lưu vực [[sông Nin]]. Theo dòng lịch sử thì chúng đã từng tồn tại trên quần đảo [[Comoros]] (nằm giữa Madagascar và [[Mozambique]]), nhưng ngày nay không còn. Gần đây thôi cá sấu sông Nin còn hiện diện ở [[Israel]], [[Jordan]] và [[Algérie]]. Sự vắng mặt của chúng ở nhiều nơi được quy cho là do sự mở rộng của [[khí hậu]] [[khô cằn]] và tương ứng với nó là sự suy giảm của các vùng đất ẩm ướt. Người ta gần như không còn tìm thấy chúng ở vùng [[đồng bằng châu thổ sông Nin]] hay dọc theo các vùng ven bờ biển [[Địa Trung Hải]]. Khu vực sinh sống của chúng đã bị thu hẹp chỉ còn trong [[vùng sinh thái nhiệt đới châu Phi]].
 
== Tình trạng môi trường ==
Từ những năm 1940 đến cuối thập niên 1960, cá sấu sông Nin đã bị [[săn bắn]] rất nhiều, chủ yếu để lấy da cá sấu có chất lượng cao được ưa thích trên thị trường hàng tiêu dùng bằng da, ngoài ra còn để lấy thịt và các chất làm thuốc chữa bệnh. Quần thể cá sấu sông Nin đã bị suy giảm mạnh và loài này gần như đối mặt với nguy cơ [[tuyệt chủng]]. [[Luật pháp]] các quốc gia trong khu vực cũng như các quy định của [[thương mại]] quốc tế đã giúp cho loài này hồi sinh ở nhiều khu vực và loài này trên tổng thể đã thoát khỏi họa diệt chủng.
Hàng 86 ⟶ 90:
 
Tình trạng bảo tồn của cá sấu sông Nin theo [[sách đỏ IUCN|sách đỏ]] năm 1996 của [[liên minh bảo tồn thế giới]] (IUCN) là "ít nguy cấp". Công ước về thương mại quốc tế các loài động, thực vật đang nguy cấp ([[CITES]]) liệt kê cá sấu sông Nin vào Phụ lục I (đe dọa tuyệt chủng) ở phần lớn các khu vực sinh sống của chúng cũng như vào Phụ lục II (không bị đe dọa, nhưng cần kiểm soát việc buôn bán) ở các khu vực còn lại, điều này hoặc là cho phép chăn nuôi hay thiết lập [[hạn ngạch thương mại|hạn ngạch]] hàng năm về sản lượng da thu hoạch từ cá sấu sống hoang dã.
 
== Thánh thần, xác ướp và bùa chú ==
[[Tập tin:Egypt.Sobek.01.jpg||nhỏ|trái|250pix|[[Sobek]] ở [[đền thờ Kom-Ombo]]]]
Hàng 100 ⟶ 105:
 
== Truyện viễn tưởng ==
Cá sấu cũng xuất hiện trong các phim ảnh và truyện [[kinh dị]]. Ví dụ, một kẻ xấu trong [[phim loại B]] ''Crocodile'' (sản xuất năm 2000) là một con cá sấu sông Nin 100 năm tuổi dài 9  m (30  ft) được gọi là "Flat Dog" (con chó bẹp), chuyên môn ăn thịt những đứa trẻ từ 13 đến 19 tuổi (tuổi teen).
 
Trong thế giới viễn tưởng ''Discworld'', được mô tả trong sách của [[Terry Pratchett]], một trong những vị thần của Discworld là Offler là vị thần cá sấu. Ông được thờ cúng chủ yếu ở Klatch và các quốc gia nóng bức khác gần các con sông lớn.
 
== Tên gọi khác ==
Cá sấu sông Nin được gọi là ''Mamba'' ở [[Swahili]], ''Garwe'' ở [[Shona]], ''Ngwenya'' ở [[Ndebele]] và ''Olom'' ở [[Nubia]].
 
[[Danh pháp hai phần|tên gọi khoa học]] '''''Crocodylus niloticus''''' có nguồn gốc từ [[tiếng Hy Lạp]] ''kroko'' ("đá cuội"), ''deilos'' ("bọ", hay "người"), để chỉ tới lớp da sần sùi của chúng; và ''niloticus'', có nghĩa là "từ sông Nin".
 
== Phân loại ==
Cá sấu là các [[archosauria|archosaur]]; được hình thành sớm từ sự chia tách ra khỏi phần còn lại của lớp bò sát khoảng 230 [[triệu]] năm trước đây, trong thời kỳ của kỷ [[Kỷ Tam Điệp|Triassic]]. Họ hàng gần nhất của chúng còn tồn tại đến ngày nay là hậu duệ duy nhất còn sống sót của archosaur: chim. Giống như chim, chúng có [[mề]] và tim 4 ngăn. Không giống như chim, (là hậu duệ của [[khủng long]] (''dinosaur'')), [[hình thái học|hình dạng cơ thể]] cơ bản của cá sấu thay đổi rất ít theo thời gian