Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Cày”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 7:
 
Mục đích chính của việc cày là để lật các lớp trên của đất, đưa chất dinh dưỡng mới lên bề mặt, đồng thời chôn lấp cỏ dại, những gì còn sót lại của vụ mùa trước và phá vỡ chúng. Khi cày được kéo qua lớp đất nó tạo ra rãnh đất dài màu mỡ gọi là luống cày. Trong thời hiện đại, một luống cày thường để khô, và sau đó bừa trước khi trồng. Cày, bừa và bón phân lọc rửa và thay đổi một lớp dày 12-25 cm của đất để tạo thành một lớp đất đã cày. Trong nhiều loại đất, phần lớn rễ cây có khả năng hút chất tăng trưởng đều nằm trong lớp đất trên bề mặt hoặc trong lớp đất cày.
Khởi đầu cày dùng sức con người, nhưng quá trình này trở nên hiệu quả hơn đáng kể khi sử dụng các con vật. Những động vật đầu tiên kéo cày là [[bò]], và sau này là [[ngựa]] và [[la]], ngoài ra còn nhiều loài [[động vật]] khác nhau đã được sử dụng. Ở các [[nước công nghiệp]] phát triển, máy cày đầu tiên dùng [[động cơ hơi nước]], nhưng đã được dần dần thay thế bằng máy cày sử dụng [[động cơ đốt trong]].
 
Có các cuộc thi hiện đại diễn ra cho những người chuyên cày như giải vô địch quốc gia cày ở [[Ireland]]. Việc thực hiện cày đất đã giảm ở một số khu vực, thường là ở những địa phương có đất chất lượng kém và bị xói mòn, thay vào đó sử dụng cày nông và kỹ thuật canh tác bảo tồn ít xâm lấn khác.
Sau khi cày muốn đất ruộng thêm tơi nhà nông cần phải [[bừa]].
 
Phương pháp canh tác tự nhiên đang dần phổ biến mà không cần đến việc cày, chỉ cần cày lúc ban đầu để phá vỡ đất thịt trên một vùng đất mới được canh tác, do đó đất mới vỡ hoang có thể thâm nhập và phát triển nhanh hơn và theo chiều sâu hơn. Vì không cày, các cây nấm có lợi và cuộc sống của vi sinh vật có thể phát triển và cuối cùng sẽ đưa không khí vào trong đất, giúp giữ nước và tạo ra chất dinh dưỡng. Một lớp đất khỏe mạnh đầy đủ các loại nấm và hoạt động sống của vi khuẩn, kết hợp với các loại cây trồng khác nhau (sử dụng trồng xen canh), ức chế cỏ dại và sâu bệnh một cách tự nhiên và giữ lại nước mưa. Như vậy nước, dầu, thủy lợi, phân bón và thuốc diệt cỏ có thể không cần đến. Đất canh tác trở nên màu mỡ hơn và tái phục hồi theo thời gian, trong khi đất cày có xu hướng giảm năng suất theo thời gian do bị xói mòn và bị loại bỏ các chất dinh dưỡng sau mỗi vụ thu hoạch. Những người ủng hộ việc hạn chế cày đất nông nghiệp cho rằng đó là cách duy nhất của nông nghiệp để duy trì chất lượng đất khi các nhiên liệu hóa thạch dần cạn kiệt. Mặt khác, lợi thế của phương pháp nông nghiệp áp dụng cày ở chỗ nó cho phép độc canh trên quy mô lớn tại các địa điểm ở xa, sử dụng máy móc công nghiệp thay cho lao động của con người.
 
==Tham khảo==