Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Constantinus Đại đế”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n General Fixes |
Không có tóm lược sửa đổi |
||
Dòng 4:
| title = [[Hoàng đế La Mã|Hoàng đế]] của [[Đế quốc La Mã]]
| image =Rome-Capitole-StatueConstantin.jpg
| image_size = 240px
| caption =Tượng
| chức vị =[[Hoàng đế]] [[nhà Constantinus]]
| kiểu tại vị =Trị vì
Hàng 24 ⟶ 25:
| place of death =
| place of burial =[[Constantinopolis]], [[Đế quốc La Mã]]
| tôn giáo = [[
|}}
'''Flavius Valerius Aurelius Constantinus'''<ref>Trong [[latinh|tiếng Latinh]] đế hiệu đầy đủ của
Ông là một [[thiên tài]] và cũng gặp may trong đời: các vị tiên đế chọn cha ông làm tướng, sau đó còn làm vua. Nhờ đó, sau khi phụ hoàng [[Constantius Chlorus]] qua đời vào năm [[306]], ông được tấn phong làm Hoàng đế tại [[York]] (nước [[Anh]] ngày nay), mở ra triều đại của vị Hoàng đế vĩ đại Constantinus I Đại Đế.<ref>Elizabeth Hartley, Jane Hawkes, Martin Henig, ''Constantine the Great: York's Roman emperor'', trang 15</ref> Ông là vị lãnh đạo đầu tiên trong lịch sử nền văn minh phương Tây đã ban bố chính sách tự do tôn giáo. Ông rất sùng đạo Kitô giáo và coi Thiên Chúa là người giúp ông đánh bại các kẻ thù của mình và danh chính ngôn thuận ngự trị Đế quốc:<ref>D. G. Kousoulas, ''The Life and Times of Constantine the Great'', các trang XIII-XIV.</ref> tương truyền rằng Thiên Chúa đã hỗ trợ cho ông đánh thắng phe đối lập trong [[trận Cầu Milvian|trận cầu Milvian]] và thống nhất Đế quốc La Mã.<ref>D. G. Kousoulas, ''The Life and Times of Constantine the Great'', trang 144</ref> Sau chiến thắng vang dội ấy, ông ca khúc khải hoàn diễu binh vào thành [[Roma|La Mã]] trong niềm biết ơn Thiên Chúa.<ref>Terry Julian, ''Constantine the Great, Christianity, and Constantinople'', trang 21</ref> Do đó, chiến công vẻ vang này trở thành một những thời khắc lớn, khó quên trong lịch sử, vì dẫn đến cuộc [[
Ông cũng tấn công [[người Frank]] vào năm [[310]] và buộc nhiều người Frank phải nhập quân ngũ La Mã.<ref>Noel Emmanuel Lenski, ''The Cambridge companion to the Age of Constantine'', Tập 13, trang 357</ref> Ông cũng đánh thắng [[người Sarmatia]] và [[goth|người Goth]], nhưng quan trọng hơn cả là cuộc đại thắng của ông trước người [[Đế quốc Ba Tư|Ba Tư]] dưới triều [[nhà Sassanid]] - là kẻ thù truyền thống của Đế quốc La Mã ở phương Đông.<ref>Noel Emmanuel Lenski, ''The Cambridge companion to the Age of Constantine'', Tập 13, trang 313</ref> Vào năm [[324]], vua Constantinus I Đại Đế tuyên bố quyết định đổi tên thành [[Byzantium]] thành ''Tân La Mã'' (Nova Roma) và vào [[11 tháng 5]] năm [[330]] ông chính thức dời đô về thành phố này. Đây là một quyết định quan trọng của ông.<ref name="ConstantineChristi11"/> Ông là một vĩ nhân và việc ông thiên đô về thành Constantinopolis đã góp phần bảo vệ luật pháp La Mã, nền văn hóa và ngôn ngữ Hy Lạp, do đó ông trở thành vị vua sáng lập ra nền văn minh Đông La Mã Kitô giáo kéo dài hơn ngàn năm.<ref name="ConstantineChristi11"/> Sau khi Constantinus I Đại Đế qua đời vào năm 337, Triều đình La Mã đổi tên kinh đô mới thành [[Constantinopolis]], có nghĩa là ''Thành phố của Constantinus''. Thành Constantinopolis vẫn là kinh đô của [[Đế quốc Đông La Mã]] trên hơn một ngàn năm, chỉ bị ngắt quãng tạm thời bởi sự đốt phá và chiếm đóng của quân [[Thập tự chinh lần thứ tư]] năm 1204, cho đến khi rơi vào [[Đế quốc Ottoman]] năm 1453. Tuy là một vị Hoàng đế có nhiều thành tựu rực rỡ nhưng có nhiều người thẳng tay chỉ trích ông vào các thời Hậu Cổ đại (trong số đó có cả người cháu trai của chính ông là Hoàng đế [[Julianus (Hoàng đế)|Julianus]]) và Cận đại: theo đó, Constantinus I là một ông vua hung bạo, tham tàn, có nhiều tội trạng đối với đất nước và chỉ giỏi theo đuổi lợi ích riêng của mình.<ref name="HansPohlsander1"/>
<!--== Sử liệu ==
Constantinus là một chính khách có tầm quan trọng lớn trong lịch sử, và có lẽ vì thế mà ông luôn luôn là một nhân vật gây tranh cãi trong giới sử học.<ref>Barnes, ''Constantine and Eusebius'', 272.</ref> The fluctuations in Constantine's reputation reflect the nature of the ancient sources for his reign. These are abundant and detailed,<ref>Bleckmann, "Sources for the History of Constantine" (CC), 14; Cameron, 90–91; Lenski, "Introduction" (CC), 2–3.</ref> but have been strongly influenced by the official propaganda of the period,<ref>Bleckmann, "Sources for the History of Constantine" (CC), 23–25; Cameron, 90–91; Southern, 169.</ref> and are often one-sided.<ref>Cameron, 90; Southern, 169.</ref> There are no surviving histories or biographies dealing with Constantine's life and rule.<ref>Bleckmann, "Sources for the History of Constantine" (CC), 14; Corcoran, ''Empire of the Tetrarchs'', 1; Lenski, "Introduction" (CC), 2–3.</ref> The nearest replacement is [[Eusebius of Caesarea]]'s ''Vita Constantini'', a work that is a mixture of [[eulogy]] and [[hagiography]].<ref>Barnes, ''Constantine and Eusebius'', 265–68.</ref> Written between 335 and circa 339,<ref>Drake, "What Eusebius Knew," 21.</ref> the ''Vita'' extols Constantine's moral and religious virtues.<ref>Eusebius, ''Vita Constantini'' 1.11; Odahl, 3.</ref> The ''Vita'' creates a contentiously positive image of Constantine,<ref>Lenski, "Introduction" (CC), 5; Storch, 145–55.</ref> and modern historians have frequently challenged its reliability.<ref>Barnes, ''Constantine and Eusebius'', 265–71; Cameron, 90–92; Cameron and Hall, 4–6; Elliott, "Eusebian Frauds in the "Vita Constantini"", 162–71.</ref> The fullest secular life of Constantine is the anonymous ''Origo Constantini''.<ref>Lieu and Montserrat, 39; Odahl, 3.</ref> A work of uncertain date,<ref>Bleckmann, "Sources for the History of Constantine" (CC), 26; Lieu and Montserrat, 40; Odahl, 3.</ref> the ''Origo'' focuses on military and political events, to the neglect of cultural and religious matters.<ref>Lieu and Montserrat, 40; Odahl, 3.</ref>-->
Dòng 47:
Cậu bé Constantinus được giáo dục tốt, trở thành người nói thông thạo tiếng Hy Lạp, và rất am hiểu về [[triết học]].<ref>Barnes, T.D., ''Constantine and Eusebius'' Cambridge, MA and London, 1981.</ref> Ông phục vụ trong triều đình của [[Diocletianus]] ở [[Nicomedia]], sau khi cha ông được phong như là một trong hai ''[[Caesar (danh hiệu)|caesares]]'' (hoàng đế trẻ) của [[Tứ đầu chế]] năm 293. Năm 305, cả ''[[Augustus (danh hiệu)|augusti]]'' (hoàng đế cả), Diocletianus và [[Maximianus]], [[thoái vị]], và Constantius lên nối ngôi Maximianus với vai trò là Augustus phía tây. Mặc dù con trai hợp pháp của hai hoàng đế là có ở đó (Constantinus và [[Maxentius]], con của Maximianus), cả hai đều không được để ý tới trong quá trình chuyển giao quyền lực. Thay vào đó, [[Severus II|Severus]] và [[Maximinus II|Maximinus Daia]] được phong hai vị ''caesar''. Bởi vì Diocletianus không hoàn toàn tin tưởng Constantius - không ai trong số các Tetrarch hoàn toàn tin cậy các đồng nghiệp của họ - Constantinus đã giữ vai trò như là của một con tin, một công cụ để đảm bảo cho một thái độ tốt nhất của Constantius. Constantinus dù sao cũng là thành viên nổi bật của triều đình: ông đã chiến đấu cho Diocletianus và Galerius ở châu Á, ông cũng đã tham gia chiến dịch chống lại người rợ ở phía bên kia sông Danube vào năm 296, và chiến đấu với người Ba Tư dưới trướng Diocletianus ở Syria (297) và dưới quyền Galerius ở vùng Lưỡng Hà (năm 298-99)<ref>Constantine, ''Oratio ad Sanctorum Coetum'', 16.2; Elliott, ''Christianity of Constantine''., 29–30; Lenski, "Reign of Constantine" (CC), 60; Odahl, 72–73.</ref>
Constantinus sau đó đã quay trở lại Nicomedia từ mặt trận phía Đông vào mùa xuân năm 303, chỉ để chứng kiến sự khởi đầu của cuộc "[[Đại
[[Tập tin:Istanbul - Museo archeol. - Diocleziano (284-305 d.C.) - Foto G. Dall'Orto 28-5-2006.jpg|nhỏ|phải|Head from a statue of [[Diocletianus|Diocletian]], Augustus of the East]]
Dòng 91:
[[Tập tin:Byzantinischer Mosaizist um 1000 002.jpg|nhỏ|trái|180px|''Constantinus Đại Đế'', tranh khảm ở [[Hagia Sophia]], cố đô [[Constantinopolis]], khoảng 1000; (ngày nay là [[Istanbul]].]]
Constantinus I có lẽ được biết đến nhiều nhất như là Hoàng đế đầu tiên theo [[Kitô giáo]] của Đế quốc La Mã. Triều đại của ông là một bước ngoặt lịch sử của
Các học giả vẫn còn tranh cãi liệu là Constantinus đã chuyển theo Kitô giáo thời trẻ theo mẹ ông là [[thánh Helena|bà Helena]], hay là ông chuyển dần sang Kitô giáo trong suốt cuộc đời.<ref>R. Gerberding and J. H. Moran Cruz, ''Medieval Worlds'' (New York: Houghton Mifflin Company, 2004) p. 55</ref> Constantinus trên 40 tuổi khi cuối cùng ông tuyên bố rằng mình theo Kitô giáo.<ref>Peter Brown, ''The Rise of Christendom'' 2nd edition (Oxford, Blackwell Publishing, 2003) p. 61</ref> Khi viết cho những người Kitô giáo, Constantinus nói rõ là ông tin là những sự thành công của ông là do sự bảo vệ của Thiên Chúa
Triều đại của Constantinus đã thiết lập một tiền lệ cho một vị trí Giáo hoàng trong Giáo hội Công giáo; Constantinus tự cho mình có trách nhiệm với Thiên Chúa về sức khỏe về mặt tâm linh của thần dân của ông ta, và do đó ông có trách nhiệm duy trì
Vào năm 316, Triều đình Constantinus I đảm nhiệm vai trò trọng tài trong cuộc tranh cãi ở Bắc Phi về sự
== Constantinus và người Do Thái ==
Constantinus đã ban hành một số đạo luật có liên quan tới người [[Do Thái]]: họ bị cấm không được sở hữu nô lệ theo Kitô giáo và không được [[brit milah|cắt bì]] nô lệ của họ. Chuyển đạo từ Kitô giáo sang [[Do Thái giáo]] bị cấm. Hội họp nghi lễ tôn giáo bị giới hạn, nhưng người Do Thái được phép vào [[Jerusalem]] vào dịp [[Tisha B'Av]], kỉ niệm ngày [[Đền thờ ở Jerusalem]] [[Đánh chiếm Jerusalem (70)|bị phá hủy]]. Constantinus cũng
== Các cải cách ==
Dòng 373:
|ALTERNATIVE NAMES= Constantinus, Flavius Valerius Aurelius;Constantine, Saint;Constantine the Great;
|SHORT DESCRIPTION=Roman Emperor
|DATE OF BIRTH=c. [[27 tháng 2]] [[
|PLACE OF BIRTH=[[Niš|Naissus]]
|DATE OF DEATH=[[22 tháng 5]] [[337]]
|PLACE OF DEATH=
}}
[[Thể loại:Sinh
[[Thể loại:Mất 337]]
[[Thể loại:Hoàng đế La Mã]]
[[Thể loại:Chấp chính quan của Đế quốc La Mã]]
[[Thể loại:Bài cơ bản dài]]
|