Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Đàm Văn Ngụy”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 35:
Sau khi [[Vệ quốc đoàn]] được tổ chức chính quy hóa, Chi đội Lạng Sơn trở thành Trung đoàn 28, ông [[Phùng Thế Tài|Phùng Hữu Tài]] được phân công làm Trung đoàn trưởng. ông được phân công làm cán bộ tiểu đội, trung đội, Tiểu đoàn 2, thuộc trung đoàn này.
 
==Tham gia kháng chiến chống Pháp==
Năm 1946, trong trận phòng ngự ở [[Đồng Đăng]], [[Lạng Sơn]], ông chỉ huy tiểu đội chiếm một mỏm núi ở đầu phố, chặn giữ đối phương cho các đơn vị và cơ quan địa phương Việt Minh rút ra ngoài, đánh lui bốn đợt phản kích của đối phương. Cuối năm đó, một lần nữa ông chỉ huy tiểu đội đánh cản và rút sau cùng ở Cơn Pheo (Lạng Sơn) để trung đội thoát khỏi vòng vây.
 
Hàng 49 ⟶ 50:
Từ tháng 6 năm 1954, ông được thăng làm Tiểu đoàn phó. Ngày [[7 tháng 5]] năm 1956, ông được [[Chủ tịch nước Việt Nam|Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa]] tặng thưởng [[Huân chương Quân công]] hạng Ba và danh hiệu [[Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân]]. Khi đó, ông là Tiểu đoàn phó, phụ trách Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 11, Trung đoàn 176, [[Sư đoàn 316, Quân đội Nhân dân Việt Nam|Đại đoàn 316]], Đảng viên [[Đảng Lao động Việt Nam]].
 
Tháng 3 năm 1957, ông được phân công theo học Trường Quân sự Trung cao [[Nam Kinh]] ([[Trung Quốc]]). Từ tháng 2 năm 1960, ông được bổ nhiệm là Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 2, [[Sư đoàn 316, Quân đội Nhân dân Việt Nam|Lữ đoàn 316]], đầu năm 1962, tham gia chiến đấu tại [[Mặt trận Thượng Lào]], hàm [[Đại úy]]. Năm 1964, khi Lữ đoàn 316 được nâng lên cấp [[sư đoàn]], ông được phân công chức vụ Trung đoàn phó. Tháng 10 năm 1965, ông được bổ nhiệm làm Trung đoàn trưởng Trung đoàn 174, [[Sư đoàn 316, Quân đội Nhân dân Việt Nam|Sư đoàn 316]], hàm [[Thiếu tá]].
 
Năm 1964, khi Lữ đoàn 316 được nâng lên cấp [[sư đoàn]], ông được phân công chức vụ Trung đoàn phó. Tháng 10 năm 1965, ông được bổ nhiệm làm Trung đoàn trưởng Trung đoàn 174, [[Sư đoàn 316, Quân đội Nhân dân Việt Nam|Sư đoàn 316]], hàm [[Thiếu tá]].
 
==Tham gia kháng chiến chống Mỹ==
Từ tháng 3 năm 1967, ông cùng Trung đoàn 174 được điều động vào Nam tham chiến tại [[Chiến trường Tây Nguyên]], trở thành nòng cốt để thành lập [[Sư đoàn 1, Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam]]. Tháng 7 năm 1968, ông chỉ huy trung đoàn tham gia đợt 3 tổng tiến công tại chiến trường [[Tây Ninh]] - [[Dầu Tiếng]]. Tháng 10 năm 1968, trung đoàn hành quân về [[Phước Long]] củng cố và được biên chế vào đội hình của [[Sư đoàn 5, Quân đội Nhân dân Việt Nam|Sư đoàn 5, Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam]], vẫn do ông làm Trung đoàn trưởng, rồi Sư đoàn phó Sư đoàn 5.
 
Hàng 61 ⟶ 65:
Trong [[Chiến dịch Hồ Chí Minh]], ông chỉ huy sư đoàn phụ trách mũi tấn công [[Trảng Bàng]], [[Củ Chi]], chiến đấu trong đội hình của [[Quân đoàn 3, Quân đội Nhân dân Việt Nam]].
 
Tháng 7 năm 1976, ông được phân công làm Phó hiệu trưởng quân sự [[Trường Sĩ quan Chính trị]].
Tháng 7 năm 1976, ông được phân công làm Phó hiệu trưởng quân sự [[Trường Sĩ quan Chính trị]]. Từ tháng 1 năm 1978, ông được bổ nhiệm làm Phó Tư lệnh [[Quân khu 1, Quân đội Nhân dân Việt Nam|Quân khu 1]]. Ngày [[16 tháng 7]] năm 1979, [[Quân đoàn 8, Quân đội Nhân dân Việt Nam|Quân đoàn 8]] (sau đổi phiên hiệu thành [[Quân đoàn 26, Quân đội Nhân dân Việt Nam|Quân đoàn 26]]), tức [[Binh đoàn Pắc Bó]] thuộc Quân khu 1 được thành lập, gồm các sư đoàn bộ binh 311, 322, 346; trung đoàn pháo binh 188; trung đoàn phòng không 814; trung đoàn công binh 522. Ông được bổ nhiệm làm Tư lệnh quân đoàn và chỉ huy quân đoàn tham chiến trong [[Chiến tranh biên giới phía Bắc]].
 
==Tham gia cuộc chiến tranh biên giới phía bắc==
Sau chiến tranh, ông được thăng hàm [[Thiếu tướng]] (tháng 1 năm 1980), rồi [[Trung tướng]] (tháng 12 năm 1984). Đến tháng 4 năm 1987, ông được thăng Tư lệnh Quân khu 1, Bí thư Đảng ủy và giữ chức vụ này đến tháng 12 năm 1996 thì nghỉ hưu.
 
Từ tháng 1 năm 1978, ông được bổ nhiệm làm Phó Tư lệnh [[Quân khu 1, Quân đội Nhân dân Việt Nam|Quân khu 1]].
Tháng 7 năm 1976, ông được phân công làm Phó hiệu trưởng quân sự [[Trường Sĩ quan Chính trị]]. Từ tháng 1 năm 1978, ông được bổ nhiệm làm Phó Tư lệnh [[Quân khu 1, Quân đội Nhân dân Việt Nam|Quân khu 1]]. Ngày [[16 tháng 7]] năm 1979, [[Quân đoàn 8, Quân đội Nhân dân Việt Nam|Quân đoàn 8]] (sau đổi phiên hiệu thành [[Quân đoàn 26, Quân đội Nhân dân Việt Nam|Quân đoàn 26]]), tức [[Binh đoàn Pắc Bó]] thuộc Quân khu 1 được thành lập, gồm các sư đoàn bộ binh 311, 322, 346; trung đoàn pháo binh 188; trung đoàn phòng không 814; trung đoàn công binh 522. Ông được bổ nhiệm làm Tư lệnh quân đoàn và chỉ huy quân đoàn tham chiến trong [[Chiến tranh biên giới phía Bắc]].
 
Sau chiến tranh, ông được thăng hàm [[Thiếu tướng]] (tháng 1 năm 1980), rồi [[Trung tướng]] (tháng 12 năm 1984). Đến tháng 4 năm 1987, ông được thăng Tư lệnh Quân khu 1, Bí thư Đảng ủy và giữ chức vụ này đến tháng 12 năm 1996 thì nghỉ hưu. Ông mất ngày 15/02/2015 tại Hà nội <ref>http://vov.vn/chinh-tri/le-tang-trung-tuong-dam-van-nguy-384026.vov</ref>.
 
Ông là [[Ủy viên Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam]] các khóa 6, 7; [[Đại biểu Quốc hội]] khóa 8, 9.
 
Con trai ông, Đàm Dũng, từng giữ chức [[Hiệu trưởng]] [[Trường Thiếu sinh quân Quân khu I]], hàm [[Đại tá]].
 
Ông mất ngày 15/02/2015 tại Hà nội <ref>http://vov.vn/chinh-tri/le-tang-trung-tuong-dam-van-nguy-384026.vov</ref>.
 
== Lịch sử thụ phong quân hàm ==