Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Phùng Thế Tài”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Dòng 29:
Năm 1941, ông theo [[Nguyễn Ái Quốc]] về nước và tham gia hoạt động xây dựng cơ sở của đoàn thể Cứu Quốc của [[Việt Minh]] tại Cao Bằng. Tháng 4 năm 1944, ông tham gia công tác tổ chức vận chuyển vũ khí từ Trung Quốc về Việt Nam để tổ chức lực lượng vũ trang kháng Nhật. Khi Nguyễn Ái Quốc, với cái tên mới là [[Hồ Chí Minh]], thoát khỏi sự quản thúc của Quốc dân đảng Trung Quốc và trở về nước vào tháng 9 năm 1944, ông lại được Việt Minh phân công công tác bảo vệ cho lãnh tụ Việt Minh. Tháng 4 năm 1945, khi lực lượng [[Cứu quốc quân]] và [[Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân]] sát nhập thành [[Giải phóng quân]], ông được cử làm Tiểu đội trưởng Tiểu đội Giải phóng quân Thất Khê và tham gia giành chính quyền tại Thất Khê tháng 8 năm 1945.
 
==Cuộc đời binh nghiệp==
Sau khi giành chính quyền, ông được cử làm Ủy viên quân sự Việt Minh tại Lạng Sơn, kiêm chức Chi đội phó Chi đội Lạng Sơn. Sau khi Vệ quốc đoàn được tổ chức chính quy hóa, Chi đội Lạng Sơn trở thành Trung đoàn 28, ông được giữ chức vụ Trung đoàn trưởng. Năm 1947, ông được cử làm Ủy viên quân sự trong Ủy ban Hành chính Kháng chiến Hà Nội.
 
Hàng 40 ⟶ 41:
 
Năm 1967, ông được phong quân hàm [[Đại tá]] và cử giữ chức vụ Phó [[Tổng tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam]]. Ông giữ chức vụ này trong 20 năm cho đến khi về hưu vào năm 1987.
Ông tham gia lãnh đạo cả 3 quân chủng: lục quân, pháo binh, không quân.
 
Ông được phong quân hàm Thượng tá (1958), Đại tá (1967), [[Thiếu tướng]] (1974), [[Trung tướng]] (1980), Thượng tướng (1986).
 
==Công tác dân sự==
Bên cạnh các chức vụ trong quân đội, ông còn kiêm một số chức vụ dân sự. Trong thời kỳ chiến tranh phá hoại lần thứ nhất của Không quân Mỹ, ông kiêm chức vụ Trưởng Ban phòng chống bão lũ trung ương. Năm 1976, khi Tổng cục Hàng không Dân dụng của Việt Nam thống nhất được thành lập, ông kiêm chức vụ Tổng cục trưởng cho đến năm 1978.
 
==Khen thưởng==
Ông được nhà nước Việt Nam tặng thưởng các Huân chương Hồ Chí Minh, Huân chương Quân công hạng Nhất và hạng Ba, Huân chương Chiên công hạng Nhất, Huân chương Chiến thắng hạng Nhất...
 
Ông được phong quân hàm Thượng tá (1958), Đại tá (1967), [[Thiếu tướng]] (1974), [[Trung tướng]] (1980), Thượng tướng (1986).
 
Ông mất ngày [[21 tháng 3]] năm [[2014]] tại [[Thành phố Hồ Chí Minh]], hưởng thọ 95 tuổi<ref name=qdnd1>[http://www.qdnd.vn/qdndsite/vi-vn/61/43/quan-doi/dong-chi-thuong-tuong-phung-the-tai-tu-tran/293293.html Đồng chí Thượng tướng Phùng Thế Tài từ trần]</ref>.