Khác biệt giữa bản sửa đổi của “George Graham”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n →‎Tham khảo: AlphamaEditor, General Fixes
clean up, replaced: → (68), → (42) using AWB
Dòng 2:
{{Use dmy dates|date=tháng 3 2013}}
{{Thông tin tiểu sử bóng đá
| name = George Graham
| image =
| fullname = George Graham
| birth_date = {{birth date and age|1944|11|30|df=y}}
| birth_place = [[Bargeddie]], [[Glasgow]], [[Scotland]]
| position = [[tiền vệ]]<br />[[tiền đạo]]
| years1 = 1961–1964 |clubs1 = [[Aston Villa F.C.|Aston Villa]] |caps1 = 8 |goals1 = 2
| years2 = 1964–1966 |clubs2 = [[Chelsea F.C.|Chelsea]] |caps2 = 72 |goals2 = 35
| years3 = 1966–1972 |clubs3 = [[Arsenal F.C.|Arsenal]] |caps3 = 227 |goals3 = 60
| years4 = 1972–1974 |clubs4 = [[Manchester United F.C.|Manchester United]] |caps4 = 43 |goals4 = 2
| years5 = 1974–1976 |clubs5 = [[Portsmouth F.C.|Portsmouth]] |caps5 = 61 |goals5 = 5
| years6 = 1976–1977 |clubs6 = [[Crystal Palace F.C.|Crystal Palace]] |caps6 = 44 |goals6 = 2
| years7 = 1978 |clubs7 = [[California Surf]] |caps7 = 17 |goals7 = 0
| nationalyears1 = 1971–1973 |nationalteam1 = [[Đội tuyển bóng đá quốc gia Scotland|Scotland]] |nationalcaps1 = 12 |nationalgoals1 = 3
| manageryears1 = 1982–1986 |managerclubs1 = [[Millwall F.C.|Millwall]]
| manageryears2 = 1986–1995 |managerclubs2 = [[Arsenal F.C.|Arsenal]]
| manageryears3 = 1996–1998 |managerclubs3 = [[Leeds United F.C.|Leeds United]]
| manageryears4 = 1998–2001 |managerclubs4 = [[Tottenham Hotspur F.C.|Tottenham Hotspur]]
}}
'''George Graham''' (sinh ngày 30 tháng 11 năm 1944) là một cựu cầu thủ bóng đá và ông bầu thể thao người [[Scotland]]. Ông được biết đến nhiều nhất bởi sự thành công của mình tại [[Arsenal F.C.|Arsenal]], là một cầu thủ trong những năm 1970 và sau đó là người quản lý từ năm 1986 cho đến năm 1995.
Dòng 33:
Chiến thắng cú đúp mang sự chú ý của [[Scotland]] và Graham đã được lựa chọn cho đội tuyển quốc gia lần đầu tiên gặp [[Bồ Đào Nha]] vào ngày 13 tháng 10 năm 1971. Ông sẽ tiếp tục giành chiến thắng mười hai mũ trong hai năm tiếp theo cho [[Scotland]], ghi được ba bàn thắng, một trận chung kết sắp tới của ông với [[Brasil]] vào ngày 30 tháng sáu năm 1973. Bởi sau đó, tuy nhiên, Graham đã không còn là một cầu thủ của Arsenal.
 
Sự xuất hiện của [[Alan Ball]] ở giữa 1971-1972 đã làm cho vị trí của mình trong đội hình [[Arsenal F.C.|Arsenal]] ít đảm bảo và do đó ông chuyển cho £ 120.000 cho [[Manchester United F.C.|Manchester United]] vào tháng Mười Hai năm 1972. Tổng cộng, ông đã chơi 308 trận cho Arsenal, ghi được 77 bàn thắng. Ông đã dành hai năm tại Mỹ, và đã được chuyển xuống hạng Hai, trước khi nhìn thấy ra sự nghiệp của mình ở [[Anh]] tại [[Portsmouth]] và [[Crystal Palace F.C.|Crystal Palace]]. Ông đã chơi mùa hè năm 1978 ở [[Hoa Kỳ|Mỹ]] cho [[California Surf]].
 
==Sự nghiệp huấn luyện==
Dòng 45:
[[Arsenal F.C.|Arsenal]] đã không giành được một danh hiệu kể từ khi [[Cúp FA|FA Cup]] năm 1978-1979, và bị trôi mất từ ​​các đội bóng hàng đầu ở giải. Graham xóa ra nhiều những người thủ cựu và thay thế chúng bằng bản hợp đồng mới và người chơi thăng cấp từ đội trẻ, trong khi áp đặt kỷ luật nghiêm ngặt hơn nhiều so với người tiền nhiệm của mình, cả trong phòng thay đồ và trên sân. Hình thức của Arsenal ngay lập tức cải thiện, vì vậy mà câu lạc bộ là hàng đầu của Liên đoàn vào dịp Giáng sinh năm 1986, trăm năm của câu lạc bộ, lần đầu tiên trong một thập kỷ.
 
Arsenal hoàn thành thứ tư trong mùa giải đầu tiên của Graham phụ trách, và họ tiếp tục giành [[Cúp Liên đoàn bóng đá Anh|League Cup]] năm 1987. Trong khi [[Arsenal F.C.|Arsenal]] thua trận chung kết [[League]] năm sau (3-2 thất bại gây sốc cho [[Luton Town]]), hình thức [[League]] dần được cải thiện. Bên Graham đặc trưng kỷ luật phòng thủ chặt chẽ, thể hiện bởi đội trưởng trẻ tuổi [[Tony Adams]], người đã cùng với [[Lee Dixon]], [[Steve Bould]], [[Nigel Winterburn]], hình thành cơ sở phòng thủ của câu lạc bộ trong hơn một thập kỷ. Tuy nhiên, trái với niềm tin phổ biến, trong thời gian này Graham của Arsenal không phải là một bên hoàn toàn phòng thủ, Graham cũng sử dụng tiền vệ có khả năng như [[David Rocastle]], [[Michael Thomas]] và [[Paul Merson]], và tiền đạo [[Alan Smith]], người ghi bàn nhiều tác thường xuyên mang lại cho anh nhiều hơn 20 bàn thắng mỗi mùa.
 
Vào cuối mùa giải thứ ba của Graham (1988-1989), câu lạc bộ giành chức vô địch đầu tiên của họ kể từ năm 1971 (khi Graham đã là một cầu thủ của [[Arsenal F.C.|Arsenal]]), trong thời trang rất ấn tượng, trong trận đấu cuối cùng của mùa giải trước [[Liverpool]] tại [[Sân vận động Anfield|Anfield]], [[Arsenal F.C.|Arsenal]] cần thiết để giành chiến thắng bằng hai mục tiêu để có những tiêu đề, [[Alan Smith]] ghi bàn cho [[Arsenal F.C.|Arsenal]] ở đầu hiệp thứ hai để làm cho nó 1-0, nhưng khi thời gian trôi qua [[Arsenal F.C.|Arsenal]] phải vật lộn để có được một thứ hai, và với 90 phút đi trên đồng hồ, [[Arsenal F.C.|Arsenal]] vẫn cần thêm một bàn thắng. Chỉ có vài giây để đi, một bộ phim-Smith trên tìm thấy [[Michael Thomas]] tăng hàng phòng ngự Liverpool, tiền vệ trẻ bình tĩnh quả tâng bóng qua [[Bruce Grobbelaar]] và vào lưới, và [[Arsenal F.C.|Arsenal]] được vào [[Champions League]].