Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Địch Thanh”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Dòng 5:
 
==Thăng tiến==
Năm Bảo Nguyên thứ nhất thời [[Tống Nhân Tông]] ([[1038]]) ông nhận chức [[Duyên An|Duyên Châu]] (延州) chỉChỉ huy sứ, vừa gan dạ lại có mưu kế nên trong thời gian [[Chiến tranh Tống-Hạ]] (1040-1042), mỗi khi ra trận ông đều đeo [[mặt nạ]] bằng [[đồng (nguyên tố)|đồng]] để xung phong nơi trận tiền, lập được nhiều chiến công.
 
Năm Khang Định thứ nhất, được [[Doãn Thù]] tiến cử, ông được Thiểm Tây kinhKinh lược sứ là [[Hàn Kỳ]], [[Phạm Trọng Yêm]] đích thân khen thưởng. Phạm Trọng Yêm trao cho ông cuốn [[Tả truyện|Tả thị Xuân Thu]] và nói rằng "将不知古今, 匹夫勇尔" (''tướng bất tri cổ kim, thất phu dũng nhĩ'', nghĩa là làm tướng mà không hiểu chuyện xưa nay thì cũng chỉ là người tầm thường có lòng dũng cảm mà thôi)<ref name=TS />. Bị chọc tức bởi câu nói này, ông đã kiên trì đọc sách để tinh thông binh pháp thời Tần-Hán<ref name=TS />. Do gan dạ, dũng cảm, lập nhiều chiến công nên ông thăng tiến nhanh trên con đường làm quan, từ Tần Châu Thứ sử, qua Huệ Châu Đoàn luyện sứ, Bộ quân Phó đô chỉ huy sửsứ tới Mã quân Phó đô chỉ huy sứ<ref name=TS />.
 
Tháng sáu năm Hoàng Hữu thứ tư (1052), ông được thăng tới [[Khu mật sứ|Khu mật phó sứ]]<ref name=TS />. Sau khi giành thắng lợi trong cuộc chiến với [[Nùng Trí Cao]], ông được phong làm [[Khu mật sứ]], người đứng đầu của [[Khu mật viện]], một cơ quan ngang hàng với [[Trung thư tỉnh|Trung thư Môn hạ]], chuyên quản lý việc binh.
 
==Chiến tranh với Đại Nam ==