Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Kim Thái Tổ”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n →‎Gia đình: Alphama Tool, General fixes
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 32:
| tôn giáo =
}}
'''Kim Thái Tổ''' ([[chữ Hán]]: 金太祖, [[1 tháng 8]] năm [[1068]] - [[19 tháng 9]] năm [[1123]]) là miếu hiệu của vị [[hoàng đế]] khai quốc của [[nhà Kim]] trong [[lịch sử Trung Quốc|lịch sử Trung Hoa]], trị vì từ ngày 28 tháng 1 năm 1115 cho đến ngày 19 tháng 9 năm 1123. Tên thật của ông là '''Hoàn Nhan A Cốt Đả''' (chữ Hán: ''完顏阿骨打'', bính âm: ''Wanyan Aguda''), có tên Hán là '''Hoàn Nhan Mân'''. Ông là người sáng lập và là vị hoàng đế đầu tiên của triều đại [[nhà Kim]] trong [[lịch sử Trung Quốc]].
 
==Tiểu sử==
Ông là tù trưởng bộ lạc Hoàn Nhan của người [[Nữ Chân]], con trai thứ hai của [[Hoàn Nhan Hặc Lý Bát]] (''Wanyan Helibo''), em trai của [[Ô Nhã Thúc|Hoàn Nhan Ô Nhã Thúc]] (''Wanyan Wuyashu''). Ông nổi tiếng là người dũng cảm và đã tham gia nhiều cuộc chiến chống lại sự thống trị của [[nhà Liêu]].
Hoàn Nhan A Cốt Đả vốn là cháu của [[Ô Cốt Nãi|Hoàn Nhan Ô Cốt Nãi]] (完顏烏骨迺), tù trưởng bộ lạc Hoàn Nhan của người [[Nữ Chân]] vùng [[Hổ Thủy]]<ref>Nay là [[A Thập Hà]] phía đông nam [[Cáp Nhĩ Tân]] tỉnh [[Hắc Long Giang]]</ref>, con trai thứ hai của [[Hoàn Nhan Hặc Lý Bát]] (完顏劾里鉢), em trai của [[Ô Nhã Thúc|Hoàn Nhan Ô Nhã Thúc]] (完顏烏雅束). Ông nổi tiếng là người dũng cảm có tài cưỡi ngựa bắn cung và đã tham gia nhiều cuộc chiến chống lại sự thống trị của [[nhà Liêu]]. Nước Liêu vào năm [[Càn Thống (niên hiệu)|Càn Thống]] thứ chín ([[1109]]), lúc đỉnh điểm của nạn đói hoành hành, A Cốt Đả đã giúp anh mình là Ô Nhã Thúc thuần phục các chiến binh bị nạn đói của các bộ lạc khác để tăng sức mạnh cho bộ lạc mình. Nước Liêu vào năm [[Thiên Khánh (niên hiệu)|Thiên Khánh]] thứ hai ([[1112]]), khi [[Liêu Thiên Tộ Đế|Thiên Tộ Đế]] đến [[Xuân châu]] tụ hội cùng với tù trưởng các tộc Nữ Chân đã cư xử bất kính với A Cốt Đả và các tù trưởng khác, khiến họ vô cùng bất mãn có ý phản kháng triều đình Liêu.
 
Nước Liêu tháng 10 năm Thiên Khánh thứ ba ([[1113]]), huynh trưởng Ô Nhã Thúc bệnh chết, A Cốt Đả chính thức kế vị lãnh tụ liên minh các bộ lạc Nữ Chân với tên gọi [[Đô bột cực liệt]]. Năm Thiên Khánh thứ tư ([[1114]]), A Cốt Đả thống lĩnh đội quân 2500 người trong tộc khởi binh chống Liêu, kéo đến đánh phá [[Ninh Giang Châu|châu Ninh Giang]].<ref>Nay là phía đông nam [[Phù Dư]] tỉnh [[Cát Lâm]]</ref> Tướng Liêu là [[Tiêu Tự Tiên]] tức tốc dẫn 7000 tinh binh tập kết tại [[Xuất Hà Điếm]] nhằm ngăn chặn quân Nữ Chân, A Cốt Đả nhân lúc trời tối đã dẫn 3700 quân lén vượt sông [[Tùng Hoa|Hỗn Đồng]]<ref>Nay thuộc sông [[Tùng Hoa]]</ref> tập kích bất ngờ quân doanh của Liêu, khiến quân Liêu đại bại tháo chạy tán loạn. Đầu tháng Giêng [[âm lịch]] năm Thiên Khánh thứ năm ([[28 tháng 1]] năm [[1115]]) tại [[Hội Ninh]]<ref>Nay thuộc [[A Thành]], Cáp Nhĩ Tân, Hắc Long Giang</ref>, A Cốt Đả xưng đế kiến quốc, định quốc hiệu là "[[Nhà Kim|Đại Kim]]", đặt niên hiệu [[Thu Quốc (niên hiệu)|Thu Quốc]], đổi tên '''Hoàn Nhan Mân'''. Tháng 9 cùng năm, ông đánh chiếm thành [[Hoàng Long phủ]]<ref>Nay thuộc huyện [[Nông An]] tỉnh Cát Lâm</ref>, lấy Ngũ Kinh của Liêu làm mục tiêu, phân binh làm hai lộ triển khai chiến tranh Kim diệt Liêu. Đến lúc này, Liêu Thiên Tộ Đế mới xem trọng sự việc, đồng thời hạ lệnh thân chinh, song quân Liêu bị quân Kim đánh bại, còn nội bộ triều Liêu lại xảy ra việc [[Da Luật Chương Nô]] và [[Cao Vĩnh Xương]] làm phản.
Năm 1109, lúc đỉnh điểm của nạn đói hoành hành, A Cốt Đả đã giúp anh mình là Ô Nhã Thúc thuần phục các chiến binh bị nạn đói của các bộ lạc khác để tăng sức mạnh cho bộ lạc mình.
 
Tháng 5 năm Thu Quốc thứ hai ([[1116]]), quân Đông lộ chiếm lĩnh [[Đông Kinh Liêu Dương phủ]]<ref>Nay thuộc [[Liêu Dương]], [[Liêu Ninh]]</ref>, đến năm Thiên Phụ thứ tư ([[1120]]) quân Tây lộ đánh chiếm [[Thượng Kinh Lâm Hoàng phủ]]<ref>Nay thuộc [[Baarin Tả|Ba Lâm Tả]], [[Nội Mông]]</ref>, triều Liêu để mất một nửa đất đai, quốc lực dần suy yếu. Trong lúc đang diễn ra chiến sự, [[Bắc Tống]] liên tục phái các sứ giả [[Mã Chính]], [[Triệu Lương Tự]] đến, cùng Kim định [[Liên minh trên biển|Hải thượng chi minh]], liên hiệp tiến công Liêu. Năm Thiên Phụ thứ ba ([[1119]]), Liêu Thiên Tộ Đế đành phải sách phong Hoàn Nhan Mân là '''Hoàng đế Đông Hoài quốc''' nhằm xoa dịu người Kim, nhưng văn bản trong sắc phong không gọi Hoàn Nhan Mân là huynh trưởng, quốc hiệu không phải là Đại Kim, do vậy ông không tiếp thụ sắc phong mà tiếp tục tiến đánh nước Liêu.<ref>[http://zh.wikisource.org/wiki/%E9%87%91%E5%8F%B2/%E5%8D%B784 Kim sử], Quyển 84 - Liệt truyện 22.</ref>
Ông là người lập ra và là vị hoàng đế đầu tiên của triều đại [[nhà Kim]] trong lịch sử Trung Quốc. Hoàn Nhan A Cốt Đả trị vì từ năm 1115-1123. Các [[niên hiệu]] trong thời trị vì của ông là Thu Quốc (1115-1116) và Thiên Phụ (1117-1123). [[Miếu hiệu]] của ông là Thái Tổ. Thụy hiệu là Ứng càn Hưng vận Chiêu đức Định công Nhân minh Trang hiếu Đại thánh Vũ Nguyên hoàng đế (应乾兴运昭德定功仁明庄孝大圣武元皇帝).
 
Năm Thiên Phụ thứ sáu ([[1122]]), quân Đông lộ đánh hạ Trung Kinh Đại Định phủ<ref>Nay thuộc [[Ninh Thành, Xích Phong|Ninh Thành]], Nội Mông</ref>, Thiên Tộ Đế chạy đến [[sa mạc Gobi]]. Đồng thời, quân Tây lộ cũng đánh hạ Tây Kinh Đại Đồng phủ<ref>Nay thuộc [[Đại Đồng, Sơn Tây|Đại Đồng]], [[Sơn Tây (Trung Quốc)|Sơn Tây]]</ref>, [[Da Luật Đại Thạch]] lập [[Da Luật Thuần]] ở [[Nam Kinh Tích Tân phủ]]<ref>Nay thuộc thủ đô [[Bắc Kinh]]</ref>, tức chính quyền [[Bắc Liêu]]. Bắc Tống phái [[Đồng Quán]] cùng những người khác nhiều lần đem quân bắc phạt Liêu, song đều bị quân Liêu đánh tan. Bắc Tống cuối cùng phải thỉnh quân Kim đánh hạ Nam Kinh của Liêu, Bắc Liêu mất, đến lúc này Ngũ Kinh của Liêu đều bị Kim đánh hạ. Tống và Kim trải qua hiệp thương, kết quả là quân Kim sẽ trao cho Tống một bộ phận thành thị của [[Yên Vân thập lục châu]], đồng thời thu được tuế tệ, song cuối cùng Bắc Tống chỉ thu được các tòa thành trống không sau khi chúng bị quân Kim cướp phá tan tành.
== Gia đình ==
 
Tháng 8 năm Thiên Phụ thứ bảy ([[1123]]), A Cốt Đả qua đời khi đang trên đường trở về Thượng Kinh của Kim<ref>Nay thuộc vùng phụ cận A Thành, Cáp Nhĩ Tân, Hắc Long Giang</ref>, tại vị được 9 năm, hưởng thọ 56 tuổi. Hoàng đệ là Hoàn Nhan Ngô Khất Mãi kế vị, tức [[Kim Thái Tông]]. Sau khi ông mất, vào tháng 6 năm [[Thiên Hội (niên hiệu)|Thiên Hội]] thứ ba ([[1125]]), triều đình đặt [[thụy hiệu]] là '''Đại thánh Hoàng đế''' (大圣皇帝), tháng 12 cùng năm đổi là '''Đại thánh Vũ nguyên Hoàng đế''' (大圣武元皇帝), [[miếu hiệu]] là '''Thái Tổ'''. Tháng 10 năm [[Hoàng Thống (niên hiệu)|Hoàng Thống]] thứ năm ([[1145]]), thêm thụy là '''Ứng càn Hưng vận Chiêu đức Định công Nhân minh Trang hiếu Đại thánh Vũ Nguyên Hoàng đế''' (应乾兴运昭德定功仁明庄孝大圣武元皇帝).<ref>[http://zh.wikisource.org/wiki/%E9%87%91%E5%8F%B2/%E5%8D%B732 Kim sử], Quyển 32: Chí - Lễ ngũ.</ref>
 
Ngày [[5 tháng 9]] năm [[2003]], Cục Di sản Văn hóa [[Chính phủ Nhân dân Bắc Kinh]] đã phát biểu: vào năm [[1980]] tại khu lăng mộ nhà Kim trong núi Long Sơn ở vùng ngoại thành phía tây nam [[Bắc Kinh]], chứng thực rằng đây chính là quan tài bằng đá chứa hài cốt và đồ trang sức của Hoàn Nhan A Cốt Đả.
 
== Gia đình ==
* [[Thánh Mục hoàng hậu (Kim Thái Tổ)|Thánh Mục hoàng hậu]] Đường Quát thị
** Con trai thứ 5, nhưng là dòng đích nên coi là con trưởng: [[Hoàn Nhan Tông Tuấn]] (''Wanyan Zongjun''), tên Nữ Chân là Thằng Quả, về sau được con trai là [[Kim Hi Tông]] Hoàn Nhan Hợp Lạt tôn miếu hiệu là Huy Tông.
Hàng 65 ⟶ 72:
** Nghiệp vương [[Hoàn Nhan Oát Hốt]].
 
;Con gái
== Trong văn học==
*Trưởng công chúa [[Hoàn Nhan Ngột Lỗ]], gả cho [[Đồ Đan Cung]]
*Tất Quốc công chúa, gả cho [[Ô Cổ Luận Ngoa Luận]]
*Vợ của [[Bồ Sát Thạch Gia Nô]] (Bồ Sát Thạch Gia Nô là cháu của [[Bồ Sát Hộc Lỗ Đoản]], cháu ngoại Hặc Lý Bát và A Cốt Đả)
 
== Trong văn học==
Hoàn Nhan A Cốt Đả là một nhân vật trong tác phẩm [[Thiên long bát bộ|Thiên Long Bát Bộ]] của nhà văn [[Kim Dung]], trong tiểu thuyết này, ông xuất hiện và gặp gở với [[Kiều Phong]] khi đang đánh [[hổ]], sau đó ông dẫn Kiều Phong về bộ tộc của mình, cho ở nhờ để chữa trị bệnh tình cho [[A Tử]], em gái [[Aju|A Châu]] (người yêu của của [[Kiều Phong]]).
 
Ông cũng là một nhân vật trong tiểu thuyết kiếm hiệp [[Tứ đại danh bổ]] của nhà văn [[Ôn Thụy An]], trong tiểu thuyết này ông là vua nước Kim, và đang có âm mưu xâm lược [[Nhà Tống|Nam Tống]].
 
==Tham khảo==
*[[Kim sử]]
*[[Liêu sử]]
 
==Ghi chú==
{{Tham khảo}}
{{Vua nhà Kim}}
{{Sơ khai tiểu sử}}
 
[[Thể loại:Vua nhà Kim]]