Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Magnolia conifera”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
nKhông có tóm lược sửa đổi
Loại bỏ các thay đổi chưa được kiểm chứng và có chủ đích
Dòng 1:
{{otheruses|Mỡ}}
{{otheruses|Vàng tâm}}
{{taxobox
| name =''Magnolia conifera''
Hàng 24 ⟶ 23:
| synonyms_ref = <ref>{{chú thích web | url = http://www.theplantlist.org/tpl1.1/record/kew-344356 | tiêu đề = Magnolia conifera (Dandy) V.S.Kumar — The Plant List | author = | ngày = | ngày truy cập = 21 tháng 3 năm 2015 | nơi xuất bản = | ngôn ngữ = }}</ref>
}}
'''Mỡ'''<ref>Mục 2629, trang 101, Tên cây rừng Việt Nam; Nhà xuất bản Nông nghiệp 2000; ''Biên soạn bởi nhóm 30 tác giả đầu ngành phân loại thực vật Việt Nam thực hiện dự án của Vụ khoa học công nghệ và chất lượng dịch vụ của Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam''</ref>hay còn gọi là '''Vàng tâm'''<ref>''Tập 1, Cây cỏ Việt Nam''; Phạm Hoàng Hộ; Nhà xuất bản Trẻ 1999</ref> (danh pháp khoa học: '''''Magnolia conifera''''') là một loài [[thực vật có hoa]] trong họ [[Magnoliaceae]]. Loài này được (Dandy) V.S.Kumar mô tả khoa học lại lần gần nhất được công nhận năm 2006.<ref>{{chú thích web|url=http://www.theplantlist.org/tpl1.1/record/kew-344356| title=''Magnolia conifera''|accessdate=10-8-2013| author=The Plant List | year =2010}}</ref>
 
Cây gỗ nhỡ cao tới 20m. Thân đơn trục thẳng, tròn đều, độ thon nhỏ. Tán hình tháp. Vỏ nhẵn màu xám xanh, không nứt, nhiều lỗ bì tròn; lớp vỏ trong màu trắng ngà, thơm nhẹ. Cành non xanh nhạt gần thẳng góc với thân chính. Lá kèm bao chồi rụng sớm để lại sẹo vòng quanh cành. Lá đơn nguyên mọc cách, hình trái xoan hoặc trứng ngược, đầu và đuôi lá nhọn dần; phiến lá dài 12–15&nbsp;cm, rộng 2–6&nbsp;cm, mặt trên màu lục thẫm, mặt dưới nhạt hơn, hai mặt lá nhẵn, gân lá nổi rõ, có từ 12-15 cặp gân phụ. Cuống lá có vết lõm ở gốc dài bằng 1/5 cuống lá, cuống dài khoảng 2-3cm, mảnh. Hoa lớn, dài 6–8&nbsp;cm, mọc lẻ ở đầu cành. Bao hoa có 9 hoặc 11 cánh, màu trắng, xếp xoắn thành 3 lớp; lớp ngoài cùng 3 cánh mỏng phớt xanh nhạt, cánh tràng hình ê-lip cao 4-5cm rộng 2,5-2,8cm, đỉnh tròn; lớp ở giữa hình trứng hoặc e-lip, dày hơn cánh tràng lớp ngoài cùng, cánh tràng cao 5-5,5cm, rộng 2,5-3cm; lớp cánh tràng bên trong màu trắng, có thể có 3-4 cánh tràng, cánh tràng cao 4-4,5cm rộng 1,5-2cm . Nhị nhiều, chỉ nhị ngắn, nhị và nhụy xếp sát nhau trên đế hoa hình trụ, mỗi nhị cao 1,5-2cm, bao phấn khoảng 0,8-0,9cm. Bầu nhụy nổi lên, cao 1,5-2cm; nhụy gồm nhiều lá noãn rời xếp xoắn ốc tạo thành khối hình trứng. Quả đại kép hình trứng hoặc hình trụ. Mùa hoa vào tháng 4-6, mùa quả tháng 9-10<ref>http://efloras.org/florataxon.aspx?flora_id=2&taxon_id=242331530</ref>.
Hàng 33 ⟶ 32:
Cây mỡ ưa đất hơi chua, sâu, ẩm mát, còn nhiều mùn hoặc thảm tươi<ref>{{chú thích web | url = http://vafs.gov.vn/vn/2014/07/ky-thuat-trong-mo/ | tiêu đề = Kỹ thuật trồng Mỡ — Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam | author = | ngày = | ngày truy cập = 21 tháng 3 năm 2015 | nơi xuất bản = | ngôn ngữ = }}</ref>. Mỡ chủ yếu dùng phủ xanh đất trống sau khai thác rừng, phục hồi rừng nghèo kiệt, khó thích nghi ở đất trống đồi trọc. Cây Mỡ cũng có thể được trồng làm cảnh ở các công viên và vườn thực vật, ít khi trồng làm cây xanh hè phố. Trong y học truyền thống phương Đông xem cây Mỡ như là một loại thảo dược.
 
Gỗ mỡ là sản phẩm từ cây mỡ, tên thương phẩm quốc tế là ''Mo''. Gỗ mỡ mềm, thớ thẳng, mịn, dễ gia công, khó bị mối mọt. Gỗ mỡ có phần [[gỗ giác]] màu xám trắng, phần [[gỗ|gỗ lõi]] màu vàng nhạt hơi có ánh bạc. Gỗ mỡ dùng chủ yếu cho nguyên liệu giấy, sản xuất ván lạng, dùng làm bút chì, làm trụ mỏ và cũng có thể đóng đồ gia dụng, làm nhà của. Gỗ lõi cây Mỡ lâu năm quý, được gọi là gỗ Vàng tâm. Gỗ Vàng tâm nhẹ mà bền nên hay làm cung đình, nhà thờ, chùa chiền, hoành thiên, câu đối, áo quan, tượng Phật, và ngày nay còn dùng làm hộp khảm trai, sơn mài, và làm tranh sơn mài.
==Danh pháp và phân loại==
Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1930 với danh pháp khoa học là ''Manglietia conifera'' bởi nhà thực vật học Dandy<ref>http://apps.kew.org/wcsp/namedetail.do?name_id=119635</ref>. Nghiên cứu phân tử và hình thái gần đây xếp đã chi ''Manglietia'' gộp vào chi ''Magnolia'', do vậy loài Mỡ được mô tả lại và công nhận với danh pháp khoa học chính thức là ''Magnolia conifera'' vào năm 2006<ref>http://apps.kew.org/wcsp/namedetail.do?name_id=344356</ref>. Tuy nhiên một số nhà thực vật học Trung Quốc vẫn giữ quan điểm xem chi ''Manglietia'' là độc lập và muốn giữ nguyên danh pháp ''Manglietia conifera''<ref>http://efloras.org/florataxon.aspx?flora_id=2&taxon_id=242331530</ref>.