Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Bon Jovi”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n Thay thế ‘(?mi)\{\{(Liên kết chọn lọc|Link FA)\|.+?\}\}\n?’ bằng ‘’.: deprecated template |
clean up, replaced: → (4), → (9) using AWB |
||
Dòng 7:
| Background = group_or_band
| Alias =
| Origin = [[Tập tin:Flag of the United States.svg|20px]]
| Genre = [[Hard rock]], [[glam metal]], [[country rock]]
| Years_active = [[1983]] — nay
Dòng 13:
| Associated_acts =
| URL = [http://www.bonjovi.com/ BonJovi.com]
| Current_members
| Past_members
}}
'''Bon Jovi''' là một ban nhạc [[hard rock]] đến từ [[Sayreville]], [[New Jersey]]. Được thành lập và lấy tên ban nhạc theo ca sĩ hát chính là [[Jon Bon Jovi]], nhóm đã đạt được nhiều thành công lớn vào [[thập niên 1980]]<ref>http://www6.islandrecords.com/bonjovi/theband_bonjovi_bio.php - Thông tin ban nhạc</ref>. Trong 25 năm qua, Bon Jovi đã bán hơn 120 triệu album trên toàn thế giới, trong đó có 34 triệu bản bán ở Mỹ<ref>{{chú thích web | url = http://www.riaa.com/goldandplatinumdata.php?table=tblTopArt | tiêu đề = RIAA - Gold & Platinum Searchable Database - March 05, 2015 | author =
Bon Jovi được thành lập vào năm [[1983]] bao gồm ca sĩ hát chính Jon Bon Jovi, tay ghita [[Richie Sambora]], keyboard [[David Bryan]], tay bass [[Alec John Such]], và tay trống [[Tico Torres]]. Ngoài trừ sự ra đi của John Alec Such vào năm 1994 (làm cho nhóm chỉ còn bốn thành viên), nhóm vẫn giữ nguyên đội hình cũ trong suốt 25 năm qua.
Dòng 23:
Sau hai album thành công vừa phải trong năm 1984 và năm 1985, nhóm đã ghi điểm khá cao với ''[[Slippery When Wet]]'' (1986) và ''[[New Jersey (album)|New Jersey]]'' (1988), bán được những 19 triệu bản chỉ riêng tại Mỹ, đạt vị trí số 1 trong 11 bảng Top Ten trên toàn thế giới (riêng bài [[Blaze of Glory]] 5 lần đạt vị trí số 1), đã đưa Bon Jovi vào vị trí những ngôi sao ca nhạc quốc tế.
Sau những tour diễn không ngừng nghỉ, ban nhạc tạm thời gián đoạn sau [[New Jersey Tour]] vào năm 1990, trong thời gian này Jon Bon Jovi và Richie Sambora cả hai đều phát hành những
Vào năm 2006, băng chiến thắng một giải [[Giải Grammy|Grammy]] bài hát Country hợp tác tốt nhất cho bài "[[Who Says You Can't Go Home]]" với [[Jennifer Nettles]] từ [[Sugarland]] và đồng thời là ban nhạc rock đầu tiên đạt vị trí số 1 danh hiệu "Những ca khúc Đồng quê hay nhất" cũng với ca khúc trên. Ban nhạc cũng nhận được nhiều đề cử Grammy cho những album ''[[Crush]]'', ''[[Bounce]]'', và ''[[Lost Highway]]''.
Trong suốt sự nghiệp của họ, nhóm đã cho ra đời mười album phòng thu, trong đó chín đã đạt được đĩa bạch kim. Ngoài ra, nhóm đã có 19 đĩa đơn đạt Top 40 trong bảng xếp hạng Billboard, bốn trong số đó đạt vị trí số 1 ("[[You Give Love a Bad Name]]", "[[Livin' on a Prayer]]", "[[Bad Medicine]]", và "[[I'll Be There for You (bài hát của Bon Jovi)|I'll Be There for You]]"). Ban nhạc
== Lịch sử ==
Dòng 79:
Năm 1994, Bon Jovi tung ra 1 album Những bài Hit hay nhất mang tên [[Cross Road]], với 2 bài hát mới: đĩa đơn "[[Always]]" và "Someday I'll Be Saturday Night", cùng với bản được cập nhật của bài "Livin' on a Prayer" mang tên "Prayer '94", và là phiên bản chỉ có duy nhất ở Mỹ. Bài "Always" ban đầu được viết để làm soundtrack cho bộ phim [[Romeo Is Bleeding]], nhưng sau khi xem (và cảm thấy không thích) bộ phim, ban nhạc quyết định đưa bài hát cho nhà sản xuất và tung ra trong album Cross Road. Bản nhạc hình của "Always" có sự tham gia của [[Carla Gugino]], 1 nữ diễn viên có mặt trong nhiều show truyền hình và phim truyện như Son In Law, và nam diễn viên [[Jack Noseworthy]] được biết đến qua bộ phim [[U-571]] vào năm 2000. "Always" bám trụ ở bảng xếp hạng Billboard Hot 100 trong vòng 32 tuần lễ và trở thành 1 trong những bài Hit hay nhất của Bon Jovi. Bài hát leo lên vị trí thứ 4 trên những bảng xếp hạng của Mỹ và vị trí số 1 trên các bảng xếp hạng ở châu Âu, châu Á và ở [[Úc]]. Đĩa đơn này bán rất chạy và đã đạt đĩa bạch kim ở Mỹ.
Cùng năm đó, tay bass Alec John Such rời nhóm, đây là sự thay đổi thành viên đầu tiên kể từ khi ban nhạc được thành lập. Hugh McDonald, tay bass chơi trong bài "Runaway",
Năm 1995, album [[These Days]] đạt đĩa bạch kim ở Mỹ và leo lên vị trí thứ nhất trên các bảng xếp hạng ở Anh. Album này gồm 1 đĩa đơn hit ở Mỹ mang tên "[[This Ain't a Love Song]]". Những bài khác là những single được ưa thích ở châu Âu, bao gồm "Hey God", "Something for the Pain", "Lie to Me", và bài chủ đề của album.
|