Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Tư Mã Luân”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n clean up, replaced: phụ thân → cha, NXB → Nhà xuất bản (2) using AWB
clean up, replaced: → (198), → (111) using AWB
Dòng 1:
{{Thông tin nhân vật hoàng gia
| tên = Kiến Thủy Đế
| tước vị = [[Vua]] [[Trung Quốc]]
| thêm = china
| hình =
| cỡ hình =
| ghi chú hình =
| chức vị = [[Vua]] [[nhà Tấn|nhà Tây Tấn]]
| tại vị = 2/[[301]] - 5/[[301]]
| đăng quang = 2/[[301]]
| tiền nhiệm = [[Tấn Huệ Đế]]
| nhiếp chính =
| kế nhiệm = [[Tấn Huệ Đế]]
| phối ngẫu =
| chồng =
| chồng vợ =
| vợ thông tin con cái =
| thông tin con cái = [[Tư Phức]] <br> =[[Tư Mã Kiền]] <br> [[Tư Mã Hủ]]
| tên đầy đủ = Tư Mã Luân
| con cái = [[Tư Mã Phức]] <br> [[Tư Mã Kiền]] <br> [[Tư Mã Hủ]]
| tước hiệu =
| tên đầy đủ = Tư Mã Luân
| tước hiệu vị đầy đủ =
| thông tin niên hiệu =
| tước vị đầy đủ =
| thông tin niên hiệu = [[Kiến Thủy|Kiến = Thuỷ]]
| thời gian niên hiệu = [[Kiến2/301 Thủy|Kiến- Thuỷ]]5/301
| thời gian niênthụy hiệu = 2/301 - 5/301
| thụymiếu hiệu =
| miếu hiệu tên ngai =
| tên ngai Horus =
| tên Horus Nebty =
| tênHorus NebtyVàng = =
| hoàng tộc = [[Nhà Tấn|Nhà Tây Tấn]]
| Horus Vàng =
| hoàng tộc cha = [[Nhà Tấn|Nhà Tây TấnÝ]]
| cha mẹ = [[Bách phu Ýnhân]]
| mẹ sinh = [[Bách phu nhân249]]
| nơi sinh = [[249]]
| nơi sinh mất = 5/[[301]]
| nơi mất = 5/[[301thành Kim Dung]]
| nơingày an táng =
| nơi mất = [[thành Kim Dung]]
| ngàynơi an táng =
| nơi an táng =
}}
'''Tư Mã Luân''' ([[chữ Hán]]: 司馬倫; 249 - 301, trị vì:3/2-30/5/301) làm vua 3 tháng (năm 301), tự là '''Tử Di''' (子彝) là vị vua thứ 3 của [[nhà Tấn]] trong [[lịch sử Trung Quốc]]. Niên hiệu duy nhất trong thời gian ông là vua là [[Kiến Thủy]].
Dòng 55:
[[Tấn Huệ Đế]] là ông vua đần độn, để Giả Hoàng hậu ([[Giả Nam Phong]]) nhũng nhiễu, thao túng và chiếm đoạt triều chính. Tư Mã Luân có bèn thiết lập quan hệ với Giả Nam Phong.
 
Năm 299, Giả Nam Phong vu cho thái tử Tư Mã Duật<ref>Tư Mã Duật không phải là con của Giả hậu</ref> tội phản nghịch, mang ra an trí ở thành Kim Dung. Các đại thần [[Sĩ Ỷ]] và [[Tư Mã Nhã]] muốn phục ngôi [[thái tử]], bèn nhờ cậy Triệu vương Tư Mã Luân giúp đỡ. Tư Mã Luân so với Tấn Huệ Đế là thuộc hàng ông, mà so với [[Tư Mã Duật]] là đến hàng cụ. Tư Mã Luân muốn có cớ đánh Giả hậu, lại sợ thái tử là người thông minh, sau khi được phục ngôi thì khó chế ngự. Cho nên nghe theo lời mưu sĩ Tôn Tú, phao tin rằng triều thần muốn phục ngôi thái tử để phế Giả hậu. Giả hậu sợ hãi, bèn sai người hạ sát thái tử Duật ở nơi giam cầm.
 
Tháng 4 năm 300, Tư Mã Luân nghe tin thái tử bị giết, bèn lấy cớ báo thù, hợp quân với Tề vương Tư Mã Quýnh<ref>Là con trai Tư Mã Du, cháu chắt Tư Mã Ý</ref> Hai người phao tin Đông An Vương [[Tư Mã Do]] bị cách chức trước kia oán hận làm phản nên cầm quân đi dẹp tiến quân vào triều, diệt các thế lực của Giả, rồi xông thẳng vào cung bắt sống Giả Nam Phong, giam ở thành Kim Dung. Từ đó, loạn bát vương đầu thời Tấn bắt đầu. Đến tháng 9 năm đó, Tư Mã Luân sai mang rượu độc đến ép Giả hậu tự vẫn. Huệ Đế phong con cả Thái tử Duật là Hoài Lâm Vương [[Tư Mã Tân]] làm Hoàng thái tôn, phong cho Tư Mã Luân làm Sử trì tiết, Đại Đô đốc, Đốc Trung ngoại chư quân sự và lập làm tướng quốc. Tư Mã Luân lại theo lệ cũ của tổ tiên Tư Mã Ý, ép vua phong cho con mình là [[Tư Mã Phức]] làm Tiền tướng quân, tước Tế Dương vương, con thứ là [[Tư Mã Kiền]] làm Hoàng môn lang, tướng Nhữ Âm vương.
 
Hoài Nam Vương [[Tư Mã Doãn]] bị Tư Mã Luân tranh quyền trong triều, mang quân đánh ông trong cung, cuối cùng bị ông giết chết.