Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Nam tiến”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
nKhông có tóm lược sửa đổi
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 5:
'''Nam tiến''' chỉ sự xâm chiếm và mở rộng [[lãnh thổ]] của [[người Việt]] về [[hướng Nam|phương nam]] trong [[lịch sử Việt Nam]].
 
Cương thổ nước [[Đại Việt]] theo thời gian đã được mở rộng dần từ Bắc vào Nam.
Cương thổ nước Đại Việt đã được mở rộng từ Bắc vào Nam qua từng thời kỳ trong lịch sử. Thời kỳ đầu, lãnh thổ Đại Việt bao gồm khu vực châu thổ sông Hồng ([[Đồng bằng sông Hồng|Đồng bằng Bắc bộ]] hiện nay). Do đặc điểm địa-chiến lược, trong tiến trình lịch sử các triều đại phong kiến Việt Nam mở rộng lãnh thổ sang phía đông thì gặp biển, phía tây thì bị các dãy núi hiểm trở của dãy [[Dãy Trường Sơn|Trường Sơn]] ngăn cản, phía bắc là lãnh thổ rộng lớn của người [[Hán]], nên chỉ có thể lần lượt tấn công và xâm chiếm các nước lân bang ở phương Nam. Hành trình Nam tiến kéo dài gần 700 năm, nâng diện tích lãnh thổ từ ban đầu độc lập đến khi hoàn thành lên 3 lần, từ [[thế kỷ 11]] đến giữa [[thế kỷ 18]] lãnh thổ Việt Nam về cơ bản được hình thành và tồn tại như hiện nay.
Thời kỳ đầu, lãnh thổ [[Đại Việt]] bao gồm khu vực châu thổ sông Hồng ([[Đồng bằng sông Hồng|Đồng bằng Bắc bộ]] hiện nay).
Do đặc điểm dân cư, địa-chiến lược theo tiến trình lịch sử các triều đại phong kiến Việt Nam đã mở rộng xâm lấn chủ yếu theo hướng Nam.
 
Đặc điểm địa lý là nhân tố ảnh hưởng lớn nhất, hướng [[Đông]] giáp biển, hướng [[Tây]] thì bị dãy [[Dãy Trường Sơn|Trường Sơn]] ngăn cản, phía bắc là cường quốc với lãnh thổ rộng lớn của người [[Hán]]; nên hướng thiên di, mở rộng khả thi nhất là tấn công và xâm chiếm các nước lân bang ở phương Nam.
 
Hành trình Nam tiến kéo dài gần 700 năm, nâng diện tích lãnh thổ từ ban đầu độc lập đến khi hoàn thành lên 3 lần, từ [[thế kỷ 11]] đến giữa [[thế kỷ 18]] lãnh thổ [[Việt Nam]] về cơ bản được hình thành và tồn tại như hiện nay.
 
==Sáp nhập Chiêm Thành==
===Nhà Lý-Trần-Hồ===
:''Xem chi tiết:'' [[Chiến tranh Việt-Chiêm 1044]], [[Chiến tranh Việt-Chiêm 1069]], [[Chiến tranh Việt-Chiêm 1400-1407]]
 
Đây là thời kỳ thường xuyên có các cuộc giao tranh giữa các vương triều [[Đại Việt]] với [[Chiêm Thành]] ở phía nam. Phần thắng thường thuộc về nước [[Đại Việt, vốn là nước mạnh hơn]].
 
Năm [[1069]], vua [[Lý Thánh Tông]] thân chinh mang 10 vạn quân vào đánh [[Chiêm Thành]], bắt được vua Chiêm Thành bấy giờ là [[Chế Củ]] (''Jaya Rudravarman''). Chế Củ buộc phải dâng đất của ba châu [[Bố Chính]], [[Địa Lý (châu)|Địa Lý]] và [[Ma Linh]] cầu hòa.
Vua Lý Thánh Tông đặt tên cho vùng đất mới này là [[trại Tân Bình]], lãnh thổ [[Đại Việt]] mở rộng thêm vùng đất này, nay là [[Quảng Bình]] và bắc [[Quảng Trị]].
 
Năm [[1306]], thuộc vào một giai đoạn Chiêm Thành và Đại Việt có mối giao hảo tốt đẹp (Đại Việt và Chiêm Thành đã cùng liên minh chống quân Nguyên xâm lược), nhà Trần gả [[huyền Trân|công chúa Huyền Trân]] cho vua Chiêm Thành bấy giờ là [[Chế Mân]] (''Jaya Simhavarman''). Đổi lại Chế Mân dâng đất cho Đại Việt gồm [[Châu Ô]] và [[Châu Lý|Châu Rí]].
Các vùng đất này được vua [[Trần Anh Tông]] đổi tên là [[Thuận Châu]] và [[Châu Lý|Hóa Châu]], nay thuộc vùng nam [[Quảng Trị]] và [[Thừa Thiên - Huế|Thừa Thiên-Huế]], lãnh thổ [[Đại Việt]] phía nam tới Hải Vân Quan ([[đèo Hải Vân]] ngày nay)
 
Những năm đầu thời kỳ [[nhà Hồ]], từ [[1400]] đến [[1403]], nhà Hồ liên tục đem quân tấn công Chiêm Thành và đã mở mang được lãnh thổ từ Đà Nẵng tới [[Quảng Ngãi]] ngày nay. Tuy nhiên phần lãnh thổ này bị Chiêm Thành lấy lại sau khi nhà Hồ sụp đổ (1407)
Hàng 24 ⟶ 32:
Trong thời kỳ đầu [[nhà Hậu Lê]], Chiêm Thành và Đại Việt quan hệ tương đối giao hảo.
 
Đến năm [[1470]] quan hệ giữa Đại Việt và Chiêm Thành trở nên căng thẳng, vua [[Lê Thánh Tông]] phái danh tướng [[Đinh Liệt]] cầm 20 vạn quân đánh Chiêm Thành.
Năm [[1471]], quân Việt phá tan kinh đô [[Đồ Bàn|Vijaya]] (thuộc [[Bình Định]] ngày nay), vua [[Trà Toàn]] (''Pau Kubah'') bị bắt và chết trên đường về [[Thăng Long]]. Lê Thánh Tông đã sápsát nhập miền bắc Chiêm Thành, từ [[đèo Hải Vân]] đến [[đèo Cù Mông]] vào Đại Việt, đặt tên vùng đất mới là [[thừa tuyên Quảng Nam]].
 
Quân đội [[nhà Hậu Lê|nhà Lê]] còn tiến tới phía nam vùng đất [[Phú Yên]] ngày nay, [[Lê Thánh Tông]] đã cho khắc chữ vào vách đá trên đỉnh núi [[Núi Đá Bia|Thạch Bi]] (đá bia), ghi công mở đất và phân định ranh giới. Chữ ấy nay vẫn còn, nhưng nét chữ lờ mờ sứt mẻ, không thể trông rõ được.
 
===Chúa Nguyễn ([[Đàng Trong]])===
Thời [[Trịnh-Nguyễn phân tranh|Trịnh - Nguyễn phân tranh]], do áp lực từ các cuộc tấn công của [[chúa Trịnh]] từ phương bắc và nhu cầu mở rộng đất đai về phương nam, các [[chúa Nguyễn]] đã bắt đầu một công cuộc mở mang bờ cõi nước Việt về phía nam chưa từng thấy trong lịch sử.
 
Năm [[1611]], vua Po Nit tiến đánh [[Quảng Nam]], trước hành động này chúa [[Nguyễn Hoàng]] phái [[Văn Phong]] đem quân vào đánh nước Chiêm Thành lấy đất lập ra [[phủ Phú Yên]] chia ra làm hai huyện là Đồng Xuân và Tuy Hòa, nay thuộc [[Phú Yên]].
 
Năm [[1653]] vua nước Chiêm Thành là [[Bà Tấm]] (''Po Nraop'') nhằm đòi lại đất [[Phú Yên]] đã đưa quân sang đánh chiếm. Chúa [[Nguyễn Phúc Tần]] sai quan cai cơ là [[Hùng Lộc]] sang đánh. Bà Tấm xin hàng, chúa Nguyễn để từ sông Phan Lang trở vào cho vua Chiêm, còn từ sông Phan Lang trở ra lấy làm phủ Thái Ninh, sau đổi làm phủ Diên Khánh, nay thuộc [[Khánh Hòa]]. Tại đây đặt dinh Thái Khang để Hùng Lộc làm thái thú.
Hàng 41 ⟶ 50:
==Xâm chiếm Chân Lạp==
===Chúa Nguyễn===
{{Xem thêm|Đàng Trong}}
[[Tập tin:Vietnam1650.GIF ‎|nhỏ|phải||200px| Việt Nam thời [[Trịnh-Nguyễn phân tranh|Trịnh - Nguyễn phân tranh]] năm 1650]]
Trong thời kỳ này, nhiều dân Việt ở [[Đàng Trong]] bỏ dải đất miền Trung khắc nghiệt, vào khai khẩn đất làm ruộng ở [[Bà Rịa]], [[Đồng Nai]], [[Thành phố Hồ Chí Minh|Sài Gòn]] vốn là đất của [[Chân Lạp]], nhưng không gặp phản kháng gì đặc biệt.
Hàng 52 ⟶ 62:
Năm [[1698]] chúa [[Nguyễn Phúc Chu]] sai [[Nguyễn Hữu Cảnh]] làm kinh lược đất Chân Lạp. Ông chia đất Đông Phố ra làm dinh, làm huyện, lấy Đồng Nai làm huyện Phúc Long và Sài Gòn làm huyện Tân Bình. Ông đặt Trấn Biên dinh (Biên Hòa), đất Trấn Biên thì lập làm xã Thanh Hà, và Phiên Trấn dinh (Gia Định), đất Phan Trấn thì lập làm xã Minh Hương, rồi sai quan vào cai trị. Chúa Nguyễn lại chiêu mộ thêm những người lưu dân từ [[Quảng Bình]] trở vào để lập ra thôn xã và khai khẩn ruộng đất, những người Việt và Tàu ở đây đều thuộc về sổ bộ nước Việt của chúa Nguyễn. Năm [[1699]] vua Ang Em của Chân Lạp tổ chức một cuộc phản công nhằm giành lại nhưng bị thất bại.
 
[[Mạc Cửu]], một người gốc Quảng Đông, khi [[nhà Thanh]] cướp ngôidiệt [[nhà Minh]] đã cùng gia quyến bỏ sang [[Chân Lạp]] năm 1680 khai khẩn và cai quản 7 xã gồm toàn lưu dân, gọi là [[Hà Tiên]], Mạc Cửu mở rộng đất đai của mình gồm vùng đất [[Hà Tiên]], [[Rạch Giá]], [[Phú Quốc]] khi đó đang thuộc Chân Lạp nhưng Chân Lạp không kiểm soát được.
 
Năm [[1708]] để tránh áp lực thường xuyên của [[Xiêm|Xiêm La]] sang cướp phá, Mạc Cửu đã dâng đất khai phá xin nội thuộc về chúa [[Nguyễn Phúc Chú]], chúa Nguyễn đổi tên thành Trấn Hà Tiên, phong cho Mạc Cửu làm chức Tổng binh, cai quản đất Hà Tiên. Khi Mạc Cửu mất, con là [[Mạc Thiên Tứ]] lại được làm chức đô đốc, tiếp tục cai quản Hà Tiên. Mạc Thiên Tứ đắp thành, xây lũy, mở chợ, làm đường và đưa người về dạy [[Nho giáo|Nho học]] để khai hóa đất Hà Tiên.
 
Từ năm [[1735]] - [[1739]] Mạc Thiên Tứ mở rộng đất đai kiểm soát của mình sang bán đảo [[Cà Mau]], [[Bạc Liêu]], [[Hậu Giang]], [[Cần Thơ]]. Đưa thêm các vùng đất mới này vào Trấn Hà Tiên thuộc lãnh thổ Đàng Trong