Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Nam Sơn, Tam Điệp”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Dòng 24:
Năm 1788, 29 vạn quân Thanh kéo sang Việt Nam, với lý do diệt Tây Sơn dựng lại [[nhà Hậu Lê]]. [[Ngô Thì Nhậm]] chọn [[đèo Tam Điệp]] là nơi ngăn cản quân Thanh. Đây là vị trí khá hiểm trở, núi non hùng vĩ như bức tường thành án ngữ giữa hai miền. Đồi núi thung lũng liên hoàn tạo thành khối vững chắc án ngữ Bắc-Nam, giúp Nguyễn Huệ công thủ, tiến thoái cất lương, giấu quân để mùa xuân kỷ dậu (1789) tiến ra kinh thành [[Thăng Long]] quét sạch 20 vạn quân Thanh viết nên trang sử vẻ vang của dân tộc [[Việt Nam|Việt nam]].
Quần thể di tích lịch sử [[phòng tuyến Tam Điệp]] tại [[tam Điệp|
*'''Đèo Tam Điệp''' là tên gọi chính thức trong sử sách và địa lý cổ Việt Nam, chỉ con đường thiên lý cổ thời phong kiến từ Thăng Long vào nam, đi qua 3 đoạn đèo giữa hai tỉnh [[Ninh Bình]] và Thanh Hóa. Nó là một tổ hợp đèo trên núi [[Tam Điệp]], chạy ra biển theo hướng tây bắc – đông nam, có 3 ngọn. Đèo có tên gọi dân gian là đèo Ba Dội, xuất hiện trong thơ Hồ Xuân Hương, trong tiếng Việt cổ có nghĩa là ba đợt, ba lớp.
Dòng 30:
*'''Kẽm đó''': là một dãy núi, nhìn từ xa mạch núi khép kín dần, giống như cái đó bắt cá nên có tên là Kẽm Đó hay Lỗ Đó.
*'''Núi Cắm Gươm''': tên núi này trùng với ngọn Kiếp Lĩnh nằm bên bờ [[sông Hoàng Long]] ở [[cố đô Hoa Lư]], gắn với truyền thuyết [[Đinh Tiên Hoàng|Đinh Bộ Lĩnh]] thuở nhỏ bị chú đuổi tới [[sông Hoàng Long]], cắm gươm tại bờ sông này.
*'''Đền Dâu''': Nằm ở phường Nam Sơn, [[tam Điệp|
==Xem thêm==
|