Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Thời kỳ Khai Sáng”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Tomorono (thảo luận | đóng góp)
Tomorono (thảo luận | đóng góp)
Dòng 27:
Vốn có tư tưởng [[Chủ nghĩa nhân văn|nhân văn]],<ref>Heinrich Von Treitschke, George Haven Putnam, Doughlas Sladen, ''Confessions of Frederick the Great and the Life of Frederick the Great'', trang 7</ref> ông là độc giả của đại văn hào Voltaire, cùng với những danh sĩ Leibnitz, [[Montesquieu]], Rousseau, Wolff, v.v...<ref>[[Christopher M. Clark]], ''Iron kingdom: the rise and downfall of Prussia, 1600-1947'', trang 184</ref><ref>Gerhard Ritter, ''Frederick the Great: a historical profile'', trang 46</ref> Tình bạn của nhà vua và Voltaire nổi tiếng trên toàn thế giới, cả vị vua quyết đoán và nhà văn tài hoa đều ca ngợi nhau.<ref>Heinrich Von Treitschke, George Haven Putnam, Doughlas Sladen, ''Confessions of Frederick the Great and the Life of Frederick the Great'', trang 15</ref> Trong thời kỳ của [[chủ nghĩa Khai sáng chuyên chế]], chiến tranh thường xảy ra. Mọi nước châu Âu đều nhanh chóng làm kiệt quệ nguồn tài nguyên hiếm hoi của mình, do đó một quốc gia bé nhỏ có thể giành thắng lợi nếu chống chịu được.<ref>Gerhard Ritter, ''Frederick the Great: a historical profile'', trang 126</ref> Quốc vương Friedrich II Đại Đế, sau khi đánh bại Áo trong hai cuộc [[chiến tranh Silesia]] (1740 - 1745), đánh bại liên quân [[Áo]] - [[Pháp]] - [[Đế quốc Nga|Nga]] - [[Thụy Điển]] trong cuộc Chiến tranh Bảy năm.<ref>Gerhard Ritter, ''Frederick the Great: a historical profile'', trang 127</ref> [[Friedrich Nicolai]] - người xuất bản lừng danh nhất của trào lưu Khai Sáng ở kinh đô [[Berlin]], đã ca ngợi những chiến công hiển hách của nhà vua,<ref>Christopher M. Clark, ''Iron kingdom: the rise and downfall of Prussia, 1600-1947'', trang 227</ref> và thể hiện lòng yêu nước.<ref>Christopher M. Clark, ''Iron kingdom: the rise and downfall of Prussia, 1600-1947'', trang 228</ref> Thời đó, nước Phổ cũng có nhà triết học nổi tiếng [[Immanuel Kant]],<ref name="ReferenceA"/> viết về bản chất của trào lưu Khai Sáng.<ref>Christopher M. Clark, ''Iron kingdom: the rise and downfall of Prussia, 1600-1947'', trang 247t</ref> Trong luận văn nổi tiếng "''Trả lời câu hỏi: Khai sáng là gì ?''", Immanuel Kant định nghĩa:
 
{{cquote|''KHAI SÁNG LÀ SỰ THOÁT LY CỦA CON NGƯỜI RA KHỎI TÌNH TRẠNG VỊ THÀNH NIÊN DO CHÍNH CON NGƯỜI GÂY RA. VỊ THÀNH NIÊN là sự bất lực không thể vận dụng trí tuệ của mình một cách độc lập mà không cần sự chỉ đạo của người khác. Tình trạng vị thành niên này là do TỰ MÌNH GÂY RA, một khi nguyên nhân của nó không phải do sự thiếu sót trí tuệ, mà do sự thiếu sót tính cương quyết và lòng can đảm, dám tự mình dùng trí tuệ phục vụ cho mình mà không cần đến sự chỉ đạo của người khác. Sapere aude ! Hãy có can đảm tự sử dụng trí tuệ CỦA CHÍNH MÌNH! đó là câu phương châm của Khai Sáng.<ref>[http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=1198&rb=0301 Trả lời câu hỏi: Khai sáng là gì?], Immanuel Kant, www.talawas.org</ref>''}}
 
Tấm gương sáng của vị minh quân Friedrich II Đại Đế được [[Hoàng đế]] nước [[Họ Habsburg|Áo]] là [[Joseph II của đế quốc La Mã Thần thánh|Joseph II]] và vua nước [[Thụy Điển]] là [[Gustav III của Thụy Điển|Gustav III]] noi theo, nhưng họ không có thiên tài xuất sắc như ông, và rồi thất bại.<ref>Baron [[Thomas Babington Macaulay]] Macaulay ''Life of Frederick the Great'', trang 255</ref> Nhà triết học Helvetius cũng ca ngợi các vị minh quân thời đó, và được nhà vua vời đến kinh thành Berlin vào năm 1764.<ref>Baron Thomas Babington Macaulay Macaulay, ''Life of Frederick the Great'', trang 251</ref><ref>Raymond Garfield Gettell, ''History of political thought'', trang 281</ref>