Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Trần Thiện Khiêm”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Dòng 49:
 
==Binh nghiệp==
*Năm 1946,: ôngNhập giangũ nhậpvào quânQuân đội Pháp, mang số quân: 45/102.661. Theo học khoá 1 Nguyễn Văn Thinh Trường Võ bị Liên quân Viễn đông Đà Lạt. Ông''(khai tốtgiảng: nghiệp15/7/1946, nămmãn khoá: 1/7/1947. Tốt nghiệp với cấp bậc [[Chuẩn úy]]. Thời gian này ông kết thân với [[Nguyễn Khánh]], [[Quách Sến]], [[Lâm Văn Phát]] và [[Trần Đình Lan]].
*Sau khi tốt nghiệp, ông phục vụ trong quân đội Pháp. Tháng 7 năm 1948, ông được chuyển sang lực lượng Vệ Binh Nam Phần làm sĩ quan tập sự, phục vụ Đại đội 1 thuộc Tiểu đoàn 3 VN và được thăng cấp [[Thiếu úy]] ''(ngày 1-8)''. Một thời gian sau khi Quốc gia Việt Nam được thành lập.
 
*Sau khi tốt nghiệp, ông phục vụ trong quânQuân đội Pháp. Tháng 7 năm 1948, ông được chuyển sang lực lượng Vệ Binh Nam Phần ''(trong thành phần Quân đội liên hiệp Pháp)'' làm sĩ quan tập sự, phục vụ Đại đội 1 thuộc Tiểu đoàn 3 VNViệt Nam đầu tháng 8 ông được thăng cấp [[Thiếu úy]] ''(ngày 1-8)''. Một thời gian sau khi Quốc gia Việt Nam được thành lập.
'''===Quân đội Quốc gia'''===
*Năm 1950,: Khi Quốc gia Việt Nam thành lập Quân đội ông chuyển ngạch phục vụ và trở thành sĩ quan chính thức với cấp bậc [[Trung úy]], được điều làm chỉ huy một đơn vị đồn trú tại Mông Thọ, [[Rạch Giá]]. Tại đây, ông làm quen và kết hôn với bà [[Đinh Thùy Yến]] (Tư Nết, tên Pháp là Annette), con gái một đại điền chủ vùng Rạch Giá.
*Năm 1952, ông được thăng cấp [[Đại uý]] điều đi Tiểu khu [[Hưng Yên]] làm Trưởng ban 3 của Liên đoàn Lưu động số 2 đồn trú tại Ninh Giang. Tại đây ông kết thân với 2 sĩ quan người Việt là Trung úy [[Nguyễn Văn Thiệu]] và Trung úy [[Cao Văn Viên]] ''(bộ 3 này về sau là những người có thế lực nhất trong nền [[Đệ nhị Cộng hòa]]).'' Năm 1953, tháng 8 bàn giao chức Trưởng phòng 3 lại cho Đại uý [[Vương Văn Đông]]. Tháng 9, phục vụ tại Liên đoàn Lưu động số 3 đồn trú tại Ninh Bình do Thiếu tá [[Phạm Văn Đổng]] làm Chỉ huy trưởng.
*Tháng 7 năm 1954, ông làm Trưởng phòng 3 Đệ nhị Quân khu thay thế Thiếu tá [[Nguyễn Văn Thiệu]] lên làm Tham mưu trưởng. Cuối năm ông được thăng cấp [[Thiếu tá]] làm Tham mưu trưởng Đệ nhị Quân khu ''(phụ trách Trung phần vừa được thành lập, dưới quyền Trung tá [[Nguyễn Ngọc Lễ]])'' thay thế Thiếu tá Thiệu đi làm Tiểu khu trưởng Tiểu khu Ninh Thuận.
 
*Năm 1952,: ôngÔng được thăng cấp [[Đại uý]] điều đi Tiểu khu [[Hưng Yên]] làm Trưởng ban 3 của Liên đoàn Lưu động số 2 đồn trú tại Ninh Giang. Tại đây ông kết thân với 2 sĩ quan người Việt là Trung úy [[Nguyễn Văn Thiệu]] và Trung úy [[Cao Văn Viên]] ''(bộ 3 này về sau là những người có thế lực nhất trong nền [[Đệ nhị Cộng hòa]]).'' Năm 1953, tháng 8 bàn giao chức Trưởng phòng 3 lại cho Đại uý [[Vương Văn Đông]]. Tháng 9, phục vụ tại Liên đoàn Lưu động số 3 đồn trú tại Ninh Bình do Thiếu tá [[Phạm Văn Đổng]] làm Chỉ huy trưởng.
'''Quân đội VNCH'''
*Một năm sau, tháng 8 năm 1955, ông được thăng [[Trung tá]] giữ chức vụ Tham mưu Phó Tiếp vận Bộ Tổng tham mưu Quân đội Việt Nam Cộng Hoà thay thế Trung tá [[Đặng Văn Quang]].
*Do có công ủng hộ Thủ tướng [[Ngô Đình Diệm]] phế truất Quốc trưởng [[Bảo Đại]], tháng 8 năm 1957 ông được thăng cấp [[Đại tá]] giữ chức Xử lý thường vụ Tham mưu trưởng Bộ Tổng tham mưu. Sau đó ông được cử đi tu nghiệp khóa Chỉ huy và Tham mưu cao cấp tại Học viện Fort Leavenworth, Kansas, [[Hoa Kỳ]].
 
Năm 1953: Tháng 8 bàn giao chức Trưởng ban 3 lại cho Đại uý [[Vương Văn Đông]] ''(Tháng 11 năm 1960, mang hàm Trung tá cùng Đại tá Nguyễn Chánh Thi cầm đầu cuộc đảo chính chế độ Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Thất bại phải lưu vong sang Campuchia và buộc phải giải ngũ)''. Tháng 9, phục vụ tại Liên đoàn Lưu động số 3 đồn trú tại Ninh Bình do Thiếu tá [[Phạm Văn Đổng]] làm Chỉ huy trưởng.
*Sau khi về nước tháng 3 năm 1958, ông được cử làm Tư lệnh Sư đoàn 4 Dã chiến ''(ngay sau đó, được cải danh thành Sư đoàn 7 Bộ binh)''. Năm 1959, cuối tháng 3, bàn giao chức Tư lệnh Sư đoàn 7 Bộ binh lại cho Trung tá [[Huỳnh Văn Cao]].
 
*Tháng 2 năm 1960, Tư lệnh Sư đoàn 21 Bộ binh ''(tiền thân là Sư đoàn 11 Khinh chiến)'' thay thế Đại tá [[Nguyễn Văn Y]] ''(chuyển về Trung ương)'' kiêm Tư lệnh Quân khu 4 ''(đồng bằng sông Cửu Long, miền tây Nam bộ).''
Năm 1954: Tháng 7, ông làm Trưởng phòng 3 Đệ nhị Quân khu thay thế Thiếu tá [[Nguyễn Văn Thiệu]] lên làm Tham mưu trưởng.
*Tháng 11 năm 1960, khi nổ ra [[đảo chính Việt Nam Cộng hòa 1960|cuộc đảo chính quân sự]] do Đại tá [[Nguyễn Chánh Thi]] và Trung tá [[Vương Văn Đông]] cầm đầu, ông đã chỉ huy Sư đoàn 21 kéo về Sài Gòn để giải vây cho Tổng thống Ngô Đình Diệm.
 
*Tháng 7Cuối năm 1954, ông làm Trưởng phòng 3 Đệ nhị Quân khu thay thế Thiếu tá [[Nguyễn Văn Thiệu]] lên làm Tham mưu trưởng. Cuối năm: ôngÔng được thăng cấp [[Thiếu tá]] làm Tham mưu trưởng Đệ nhị Quân khu ''(phụ trách Trung phần vừa được thành lập, dưới quyền Trung tá [[Nguyễn Ngọc Lễ]])'' thay thế Thiếu tá Thiệu đi làm Tiểu khu trưởng Tiểu khu Ninh Thuận.
 
===Quân đội Việt Nam Cộng hoà===
*MộtNăm năm1955: sau, thángTháng 8 năm 1955, ông được thăng [[Trung tá]] giữ chức vụ Tham mưu Phó Tiếp vận Bộ Tổng tham mưu Quân đội Việt Nam Cộng Hoà thay thế Trung tá [[Đặng Văn Quang]].
 
*Do có công ủng hộ Thủ tướng [[Ngô Đình Diệm]] phế truất Quốc trưởng [[Bảo Đại]], tháng 8 năm 1957 ông được thăng cấp [[Đại tá]] giữ chức Xử lý thường vụ Tham mưu trưởng Bộ Tổng tham mưu. Sau đó ông được cử đi tu nghiệp khóa Chỉ huy và Tham mưu cao cấp tại Học viện Fort Leavenworth, Kansas, [[Hoa Kỳ]].
 
*Năm 1958: Sau khi về nước tháng 3 năm 1958, ông được cử làm Tư lệnh Sư đoàn 4 Dã chiến ''(ngay sau đó, được cải danh thành Sư đoàn 7 Bộ binh)''. Nămthay 1959,thế cuốiTrung tháng 3,[[Ngô bànDu]] giaođi chứchọc lớp lệnhChỉ huy đoàn& 7Tham Bộmưu binhtại lạiHoa choKỳ Trung tá [[Huỳnh Văn Cao]].
 
Năm 1959: Cuối tháng 3, bàn giao chức Tư lệnh Sư đoàn 7 Bộ binh lại cho Trung tá [[Huỳnh Văn Cao]].
 
*ThángNăm 21960: nămTháng 19602, Tư lệnh Sư đoàn 21 Bộ binh ''(tiền thân là Sư đoàn 11 Khinh chiến)'' thay thế Đại tá [[Nguyễn Văn Y]] ''(chuyển về Trung ương)'' kiêm Tư lệnh Quân khu 4 ''(đồng bằng sông Cửu Long, miền tây Nam bộ).''
 
*Tháng 11 năm 1960,: khiKhi nổ ra cuộc [[đảoĐảo chính Việt Nam Cộng hòa 1960|cuộc đảoĐảo chính quân sự]] do Đại tá [[Nguyễn Chánh Thi]] và Trung tá [[Vương Văn Đông]] cầm đầu, ông đã chỉ huy Sư đoàn 21 kéo về Sài Gòn để giải vây cho Tổng thống Ngô Đình Diệm. Đầu tháng 12, bàn giao chức Tư lệnh Sư đoàn 21 lại cho Đại tá [[Bùi Hữu Nhơn]]. Ngày 6/12: Vinh thăng [[Thiếu tướng]]
 
==Mưu sĩ của các cuộc đảo chính==