Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Giáo dục Việt Nam Cộng hòa”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
xem phần thảo luận |
|||
Dòng 1:
{{dablink|Xem thêm: [[Giáo dục Việt Nam Dân chủ Cộng hòa]] và [[Giáo dục Việt Nam]].}}
[[Tập tin:Saigon University.JPG|nhỏ|phải|250px|Mặt tiền tòa nhà hành chánh [[Viện Đại học Sài Gòn]], cơ sở giáo dục đại học lớn nhất [[miền Nam (Việt Nam)|miền Nam Việt Nam]] thời [[Việt Nam Cộng hòa]], hình chụp năm 1961]]
'''Giáo dục Việt Nam Cộng hòa''' là nền giáo dục [[Việt Nam]] dưới chính thể [[Việt Nam Cộng hòa]]. Triết lý giáo dục của Việt Nam Cộng hòa là ''[[nhân bản]]'', ''[[dân tộc]]'', và ''[[khai phóng]]''.<ref name="NTL24-26">Nguyễn Thanh Liêm (2006), tr. 24-26.</ref> [[Hiến pháp Việt Nam Cộng hòa 1967|Hiến pháp Việt Nam Cộng hòa]]
== Tổng quan ==
Hàng 9 ⟶ 7:
Từ năm 1917, [[Liên bang Đông Dương|chính quyền thuộc địa Pháp]] ở Việt Nam đã có một hệ thống giáo dục thống nhất cho cả ba miền Nam, Trung, Bắc, và cả [[Lào]] cùng [[Campuchia|Cao Miên]]. Hệ thống giáo dục thời Pháp thuộc có ba bậc: tiểu học, trung học, và đại học. Chương trình học là chương trình của Pháp, với một chút sửa đổi nhỏ áp dụng cho các cơ sở giáo dục ở Việt Nam, dùng [[tiếng Pháp]] làm ngôn ngữ chính, [[tiếng Việt]] chỉ là ngôn ngữ phụ. Sau khi Việt Nam tuyên bố độc lập vào ngày 17 tháng 4 năm 1945,<ref name="ttkim45">{{chú thích web|url=http://namkyluctinh.org/a-tailieuvnch/noicac-ttkim45.pdf|title=Lịch sử độc lập và nội các đầu tiên Việt Nam|publisher=Việt Đông xuất bản cục|date=1945|accessdate=ngày 20 tháng 11 năm 2013}}</ref> chương trình học của Việt Nam - còn gọi là chương trình [[Hoàng Xuân Hãn]] ban hành trong khoảng thời gian từ 20 tháng 4 đến 20 tháng 6 năm 1945 dưới thời chính phủ [[Trần Trọng Kim]] của [[Đế quốc Việt Nam]] - được đem ra áp dụng ở miền Trung và miền Bắc. Riêng ở miền Nam, vì có sự trở lại của người Pháp nên chương trình Pháp vẫn còn tiếp tục cho đến giữa thập niên 1950. Đến thời [[Đệ nhất Cộng hòa Việt Nam|Đệ nhất Cộng hòa]] thì chương trình Việt mới được áp dụng ở miền Nam để thay thế cho chương trình Pháp. Cũng từ đây, các nhà lãnh đạo giáo dục Việt Nam mới có cơ hội đóng vai trò lãnh đạo thực sự của mình.<ref name="NTL6-7">Nguyễn Thanh Liêm (2006), tr. 19-21.</ref>
Ngay từ những ngày đầu hình thành nền [[Đệ nhất Cộng hòa Việt Nam|Đệ nhất Cộng hòa]], những người làm công tác giáo dục ở miền Nam đã xây dựng được nền móng quan trọng cho nền giáo dục quốc gia, tìm ra câu trả lời cho những vấn đề giáo dục cốt yếu. Những vấn đề đó là: [[triết lý giáo dục]], [[mục tiêu giáo dục]], chương trình học, tài liệu giáo khoa và phương tiện học tập, vai trò của nhà giáo, cơ sở vật chất và trang thiết bị trường học, đánh giá kết quả học tập, và tổ chức [[quản trị]].<ref>Nguyễn Thanh Liêm (2006), tr. 22-23.</ref> Nhìn chung, người ta thấy mô hình giáo dục ở [[miền Nam (Việt Nam)|miền Nam Việt Nam]] trong những năm 1970 có khuynh hướng xa dần ảnh hưởng của [[giáo dục Pháp|Pháp]] vốn chú trọng đào tạo một số ít phần tử ưu tú trong xã hội và có khuynh hướng thiên về [[lý thuyết]], để chấp nhận mô hình [[giáo dục Hoa Kỳ]] có tính cách đại chúng và thực tiễn. Năm học 1973-1974, Việt Nam Cộng hòa có một phần năm (20%) dân số là học sinh và sinh viên đang đi học trong các cơ sở giáo dục. Con số này bao gồm 3.101.560 học sinh tiểu học, 1.091.779 học sinh trung học, và 101.454 sinh viên đại học; số người biết đọc biết viết ước tính khoảng 70% dân số.<ref name="NTL6-7">Nguyễn Thanh Liêm (2006), tr. 6-7.</ref> Đến năm 1975, tổng số sinh viên trong các [[viện đại học]] ở miền Nam là khoảng 150.000 người (không tính các sinh viên theo học ở [[Học viện Quốc gia Hành chánh]] và ở các trường đại học cộng đồng).<ref>Nguyen Van Canh, tr. 156</ref>
Mặc dù tồn tại chỉ trong 20 năm, từ 1955 đến 1975, bị ảnh hưởng nặng nề bởi [[Chiến tranh Việt Nam|chiến tranh]] và những bất ổn chính trị thường xảy ra, phần thì ngân sách eo hẹp do phần lớn ngân sách quốc gia phải dành cho quốc phòng và nội vụ (trên 40% ngân sách quốc gia dành cho quốc phòng, khoảng 13% cho nội vụ, chỉ khoảng 7-7,5% cho giáo dục), nền giáo dục Việt Nam Cộng hòa đã phát triển vượt bậc, đáp ứng được nhu cầu gia tăng nhanh chóng của người dân, đào tạo được một lớp người có học vấn và có khả năng chuyên môn đóng góp vào việc xây dựng quốc gia và tạo được sự nghiệp vững chắc ngay cả ở các quốc gia phát triển. Kết quả này có được là nhờ các nhà giáo có ý thức rõ ràng về sứ mạng giáo dục, có ý thức trách nhiệm và lương tâm nghề nghiệp, đã sống cuộc sống khiêm nhường để đóng góp cho nghề nghiệp, nhờ nhiều bậc phụ huynh đã đóng góp công sức cho việc xây dựng nền giáo dục quốc gia, và nhờ những nhà lãnh đạo giáo dục đã có những ý tưởng, sáng kiến, và nỗ lực mang lại sự tiến bộ cho nền giáo dục ở [[miền Nam (Việt Nam)|miền Nam Việt Nam]].<ref name="NTL6-7" />
== Triết lý giáo dục ==
[[Tập tin:PrimaryEducationRVN.jpg|nhỏ|phải|250px|Một lớp tiểu học ở [[miền Nam (Việt Nam)|miền Nam]], năm 1961.]]
Năm 1958, dưới thời Bộ trưởng Bộ Quốc gia Giáo dục [[Trần Hữu Thế]], Việt Nam Cộng hòa nhóm họp Đại hội Giáo dục Quốc gia (lần I) tại [[Thành phố Hồ Chí Minh|Sài Gòn]]. Đại hội này quy tụ nhiều phụ huynh học sinh, thân hào nhân sĩ, học giả, đại diện của quân đội, chính quyền và các tổ chức quần chúng, đại diện ngành văn hóa và giáo dục các cấp từ tiểu học đến đại học, từ phổ thông đến kỹ thuật... Ba nguyên tắc "nhân bản", "dân tộc", và "[[khai phóng]]" được chính thức hóa ở hội nghị này.<ref>{{chú thích web|url=http://www.nguyenthaihocfoundation.org/Khoahoc/gd_VNCH.htm|title=Giáo dục Việt Nam Cộng hòa|accessdate=2009-12-28}}</ref><ref name="NTL54">Nguyễn Thanh Liêm (2006), tr. 54.</ref> Đây là những nguyên tắc làm nền tảng cho triết lý giáo dục của [[Việt Nam Cộng hòa]], được ghi cụ thể trong tài liệu ''Những nguyên tắc căn bản'' do Bộ Quốc gia Giáo dục ấn hành năm 1959 và sau đó trong [[Hiến pháp Việt Nam Cộng hòa 1967|Hiến pháp Việt Nam Cộng hòa]] (1967).
# '''
# '''
# '''
== Mục tiêu giáo dục ==
Hàng 99 ⟶ 95:
Bậc [[tiểu học]] thời Việt Nam Cộng hòa bao gồm năm lớp, từ lớp 1 đến lớp 5 (thời [[Đệ nhất Cộng hòa Việt Nam|Đệ nhất Cộng hòa]] gọi là lớp Năm đến lớp Nhất). Theo quy định của [[hiến pháp]], giáo dục tiểu học là [[giáo dục phổ cập]] (bắt buộc).<ref>Sales, Jeanne M. tr 7</ref> Từ thời [[Đệ nhất Cộng hòa Việt Nam|Đệ nhất Cộng hòa]] đã có luật quy định trẻ em phải đi học ít nhất ba năm tiểu học.<ref>Smith, Harvey et al. tr 148</ref> Mỗi năm học sinh phải thi để lên lớp. Ai thi trượt phải học "đúp", tức học lại lớp đó. Các trường công lập đều hoàn toàn miễn phí, không thu [[học phí]] và các khoản lệ phí khác. Học sinh tiểu học chỉ học một buổi, sáu ngày mỗi tuần. Theo quy định, một ngày được chia ra 2 ca học; ca học buổi sáng và ca học buổi chiều. Vào đầu thập niên 1970, Việt Nam Cộng hòa có 2,5 triệu học sinh tiểu học, 82%<ref name="Viet-Nam 1970">Embassy of Viet-Nam. "Secondary Education in Viet-Nam". ''Viet-Nam Bulletin'' No 36, Oct 1970. Washington, DC.</ref> tổng số thiếu niên từ 6 đến 11 tuổi<ref name="Nguyen Ngoc Bich et al., tr. 43">Nguyen Ngoc Bich et al., tr. 43.</ref> theo học ở 5.208 trường tiểu học (chưa kể các cơ sở ở [[Phú Bổn]], [[Vĩnh Long]], và [[Sa Đéc]]).<ref name=NNB47>Nguyen Ngoc Bich et al., tr. 47.</ref>
Tất cả trẻ em từ 6 tuổi đều được nhận vào lớp Một để bắt đầu bậc tiểu học. Phụ huynh có thể chọn lựa cho con em vào học miễn phí cho hết bậc tiểu học trong các trường công lập hay tốn học phí (tùy trường) tại các trường tiểu học tư thục.<ref name="NTL28-29">Nguyễn Thanh Liêm (2006), tr. 28-29.</ref> Lớp 1 (trước năm 1967 gọi là lớp Năm) cấp tiểu học mỗi tuần học 25 giờ, trong đó 9,5 giờ môn quốc văn; 2 giờ bổn phận công dân và đức dục (còn gọi là lớp Công dân giáo dục).<ref>{{chú thích web|url=http://nguoi-viet.com/absolutenm/anmviewer.asp?a=81639&z=16|title=''Báo Người Việt'': Giáo dục thời Việt Nam Cộng hòa|accessdate=2009-12-28}}</ref> Lớp 2 (trước năm 1967 gọi là lớp Tư), [[quốc văn]] giảm còn 8 tiếng nhưng thêm 2 giờ
=== Giáo dục trung học ===
Hàng 228 ⟶ 224:
* Viện Đại học Đà Lạt: Thành lập ngày 8 tháng 8 năm 1957. Một phần cơ sở của Viện Đại học Đà Lạt nguyên là một [[chủng viện]] của [[Giáo hội Công giáo Rôma|Giáo hội Công giáo]]. Viện đại học này có 4 phân khoa đại học: Chính trị Kinh doanh, Khoa học, Sư phạm, [[Thần học]] và Văn khoa. Theo ước tính, từ năm 1957 đến 1975 viện đại học này đã giáo dục 26.551 người.<ref>{{chú thích web|url=http://www.erct.com/2-ThoVan/0-ThanHuu/HoaGiang/LSDHDaLat-V3-Menu.htm|title= Viện Đại học Đà Lạt giữa lòng dân tộc Việt Nam|accessdate=2010-02-04}}</ref>
* Viện Đại học Vạn Hạnh: Thuộc khối [[Chùa Ấn Quang|Ấn Quang]] của [[Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất]]; thành lập ngày 17 tháng 10 năm 1964 ở số 222 đường Trương Minh Giảng (sau 1975 là đường Lê Văn Sỹ), Quận 3, Sài Gòn-Gia Định với 5 phân khoa đại học: Giáo dục, [[Phật giáo|Phật học]], [[Khoa học xã hội]], Khoa học ứng dụng, và Văn học & Khoa học nhân văn. Vào đầu thập niên 1970, Vạn Hạnh có hơn 3.000 sinh viên.<ref name="htpg300" /><ref>{{chú thích web|url=http://www.nguyenhuynhmai.com/CatID_87_LanguageID_2_ArticleID_1275_.aspx|title=Viện Đại học Vạn Hạnh|accessdate=2009-12-28}}{{dead link|date=tháng 8 năm 2010}}</ref>
*
* Viện Đại học An Giang (Hòa Hảo): Thành lập năm 1970 ở [[Long Xuyên]] với 5 phân khoa đại học: Văn khoa, Thương mại-Ngân hàng, Bang giao Quốc tế, Khoa học Quản trị và Sư phạm.<ref>{{chú thích web|url=http://sokhoahoccn.angiang.gov.vn/Anphamthongtin/KHCN%20so%204-2006/nbagtiep.htm|title=Niên biểu An Giang qua các thời kỳ|accessdate=2010-02-04}}</ref> Viện Đại học này trực thuộc Giáo hội [[Phật Giáo Hòa Hảo|Phật giáo Hòa Hảo]].
* Viện Đại học Cao Đài: Thành lập năm 1971 trên đường Ca Bảo Đạo<ref>{{chú thích web|url=http://www.personal.usyd.edu.au/~cdao/booksv/tvrgdvhptIcI.htm|title=Giáo dục Văn hóa Cao Đài|accessdate=2010-01-31}}</ref> ở [[Tây Ninh (thị xã)|Tây Ninh]] với 3 phân khoa đại học: Thần học Cao Đài, Nông lâm mục, và Sư phạm.<ref>{{chú thích web|url=http://www.scribd.com/doc/17261754/Ch-dn-Vin-i-Hc-Cao-ai|title=Viện Đại-học Cao-Đài: Chỉ-Dẫn (1971-1972)|accessdate=2010-02-04}}</ref><ref>{{chú thích web|url=http://www.personal.usyd.edu.au/~cdao/booksv/tvrgdvhptIcI.htm#t3|title=Viện Đại học Cao Đài|accessdate=2010-02-04}}</ref> Viện Đại học này trực thuộc [[Hội Thánh Cao Đài Tòa Thánh Tây Ninh]].
Hàng 313 ⟶ 309:
Bộ Quốc gia Giáo dục còn điều hành [[Viện Khảo cổ (Việt Nam Cộng hòa)|Viện Khảo cổ]] và quản lý các viện bảo tàng quốc gia như [[Bảo tàng Lịch sử Việt Nam (Thành phố Hồ Chí Minh)|Viện Bảo tàng Quốc gia Việt Nam]] ở Sài Gòn, [[Bảo tàng Mỹ thuật Cung đình Huế|Viện Bảo tàng Huế]] và [[Bảo tàng Nghệ thuật điêu khắc Chăm Đà Nẵng|Viện Bảo tàng Chàm]].
===
Ở [[Việt Nam]], ngay từ thời quân chủ, giáo dục là của những người làm giáo dục. Các vương triều của [[Việt Nam]] thường chỉ vạch ra những đường nét chung và những mục tiêu chung, kèm theo đó là tổ chức các kỳ thi để tuyển chọn người tài mà không trực tiếp can dự vào hoạt động giảng dạy của các cơ sở giáo dục. Sang thời [[Pháp thuộc]], người Pháp lập ra một nền giáo dục mới, nhưng việc điều hành và soạn thảo chương trình vẫn được giao cho các nhà giáo được huấn luyện chuyên môn, dù là người Pháp hay [[người Việt]].<ref name="NTL127-128">Nguyễn Thanh Liêm (2006), tr. 127-128.</ref>
Hàng 319 ⟶ 315:
Đặc điểm trên được lưu giữ trong suốt thời [[Quốc gia Việt Nam]] của Cựu hoàng [[Bảo Đại]] và đặc biệt là thời Việt Nam Cộng hòa. Các chức vụ bộ trưởng hay tổng trưởng giáo dục có thể là do các chính trị gia hay những người thuộc các ngành khác đảm nhiệm, nhưng các chức vụ khác trong Bộ Giáo dục đều là những nhà giáo chuyên nghiệp đảm trách (ngoài trừ một số chức vụ có tính chất chính trị như đổng lý văn phòng, bí thư, v.v...). Họ là những người am hiểu công việc, có kinh nghiệm, giàu tâm huyết, và xem chính trị chỉ là nhất thời, tương lai của dân tộc mới quan trọng. Trong các cơ quan lập pháp, những người đứng đầu các ủy ban hay tiểu ban giáo dục của Thượng viện và Hạ viện (của Quốc hội Việt Nam Cộng hòa) đều là những nghị sĩ quốc hội xuất thân từ nhà giáo. Ngoại trừ ở những vùng mất an ninh, những gì thuộc phạm vi chính trị nhất thời đều ngưng lại trước ngưỡng cửa học đường.<ref name="NTL127-128" />
Riêng trong lĩnh vực giáo dục đại học, Điều 10 của [[Hiến pháp Việt Nam Cộng hòa 1967|Hiến pháp Việt Nam Cộng hòa]] (1967) nêu rõ
Về mặt [[tài chính]], tuy các [[viện đại học]] công lập có [[ngân sách]] riêng nhưng đây là một phần của ngân sách chung thuộc ngân sách quốc gia và phải được Quốc hội chấp thuận. Tất cả các chi tiêu phải qua thủ tục "chiếu hội ngân sách" ("chiếu hội" tức là kiểm nhận) do Bộ Tài chính kiểm soát và thực hiện. Ngoài ra, giảng viên và nhân viên là công chức quốc gia. Việc tuyển mới, chuyển ngạch, bổ nhiệm, thăng chức, v.v... phải qua thủ tục "chiếu hội công vụ" do Phủ Tổng ủy Công vụ thực hiện để kiểm soát. Trong thực tế, thủ tục này được thực hiện một cách khá dễ dàng và nhanh chóng. Như vậy, về mặt tài chính các viện đại học công lập ở miền Nam không được nhiều quyền tự trị như các viện đại học ở [[Hoa Kỳ]]. Lý do của việc này là do các viện đại học này không thu học phí của sinh viên, không có nguồn thu riêng.<ref name="NTL168-169" />
Hàng 340 ⟶ 336:
* Đỗ Bá Khê: sinh năm 1922 tại Mỹ Tho, mất năm 2005 tại Hoa Kỳ; tiến sĩ giáo dục ([[Đại học Nam California|Viện Đại học Nam California]]); Thứ trưởng Bộ Văn hóa, Giáo dục, và Thanh niên thời [[Đệ nhị Cộng hòa Việt Nam|Đệ nhị Cộng hòa]]. Ông là người đã thiết lập hệ thống các trường đại học cộng đồng ở miền Nam Việt Nam và được xem là "cha đẻ của các trường đại học cộng đồng Việt Nam". Ông còn thiết lập [[Viện Đại học Bách khoa Thủ Đức]] vào năm 1974 dựa theo mô hình của các viện đại học bách khoa ở [[California]] (Hoa Kỳ) và làm việc với vai trò viện trưởng sáng lập của viện đại học này.
* Nguyễn Thanh Liêm: sinh năm 1934 tại Mỹ Tho; tiến sĩ giáo dục (Viện Đại học Iowa State, Hoa Kỳ); Thứ trưởng Bộ Văn hóa, Giáo dục, và Thanh niên thời [[Đệ nhị Cộng hòa Việt Nam|Đệ nhị Cộng hòa]].
* Các Bộ trưởng Quốc gia Giáo dục: Vương Quang Nhường, Nguyễn Dương Đôn, Nguyễn Quang Trình
== Trợ giúp của quốc tế ==
Hàng 349 ⟶ 345:
== Chữ viết ==
Vào thời đó, [[chính tả]] tiếng Việt khác với bây giờ ít nhiều. Điểm khác biệt gồm có việc dùng gạch nối "-" giữa các từ trong một [[từ kép]], ví dụ như "ngân-hàng", "Việt-Nam". Cách viết tên riêng thì có khi viết thành "Nguyễn-văn-Mỗ" thay vì
== Đánh giá ==
Hàng 392 ⟶ 356:
Tiến sĩ Nguyễn Thanh Giang, một nhà bất đồng chính kiến tại Hà Nội, thì nhận định: "''Chế độ [[Việt Nam Cộng hòa]] ngày xưa có nhiều điểm ưu việt hơn chế độ chính trị của [[Việt Nam Dân chủ Cộng hòa|miền Bắc]]. Khi giải phóng vào thì tôi thấy là nền giáo dục của họ rất tốt, họ giáo dục cho trẻ em cái Lễ, chứ không phải là đấu tranh giai cấp. Con người ở miền Nam họ sống với nhau cũng có nghĩa hơn, chứ không phải như những con người giả dối, trong hội trường thì tung hô một nẻo, về nhà thì nói một nẻo. Rồi còn có báo chí, nhân quyền được tôn trọng hơn, có tự do ngôn luận hơn chứ không như ở miền Bắc là bưng bít, phải nói theo [[Đảng Cộng sản Việt Nam|Đảng]] làm theo Đảng, không được phê bình Đảng, không nói được nguyện vọng của nhân dân, của quần chúng''."<ref>{{chú thích web|url=http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/legacy-of-vnch-01282014070248.html|title=Di sản Việt Nam Cộng hòa|accessdate=2014-04-25}}</ref>
Đánh giá của nhà phê bình văn học [[Thụy Khuê (nhà phê bình)|Thụy Khuê]]: "''Có thể nói, trong suốt thời gian chia đôi đất nước, mặc dù với những tệ nạn của xã hội chiến tranh, tham nhũng; miền Nam vẫn có một hệ thống giáo dục đứng đắn. Trong chương trình giáo khoa, các giai đoạn lịch sử và văn học đều được giảng dậy đầy đủ, không thiên hướng. Ở bậc trung học học sinh gặt hái những kiến thức đại cương về sử, về văn, và tới trình độ tú tài, thu thập những khái niệm đầu tiên về triết học. Lên đại học, sinh viên văn khoa có dịp học hỏi và đào sâu thêm về những trào lưu tư tưởng Đông Tây, đồng thời đọc và hiểu được văn học nước ngoài qua một nền dịch thuật đáng tin cậy, dịch được những sách cơ bản. Nguyễn Văn Trung trong hồi ký đã nhấn mạnh đến sự tự trị của đại học, nhờ sự tự trị này mà các giáo sư có quyền giảng dạy tự do, không bị áp lực chính trị của chính quyền. Chính điều kiện giáo dục này, đã cho phép miền Nam xây dựng được một tầng lớp trí thức, một tầng lớp văn nghệ sĩ và một quần chúng độc giả; giúp cho nhiều nhà văn có thể sống bằng nghề nghiệp của mình. Và cũng chính tầng lớp trí thức và sinh viên này đã là đối trọng, chống lại chính quyền, khi có những biến cố chính trị lớn như việc đàn áp Phật giáo thời ông Diệm và việc đấu tranh chống tham nhũng (như vụ
Nhà nghiên cứu Trần Văn Chánh nhận xét: "''[N]ền giáo dục miền Nam giai đoạn 1954-1975 tuy còn đầy rẫy khiếm khuyết trong quá trình xây dựng dang dở nhưng đã tỏ ra có chiều hướng phát triển lành mạnh với những nỗ lực đầy thiện chí và sáng tạo của chính quyền các cấp, của phụ huynh học sinh, cùng các giới hữu quan công cũng như tư đối với sự nghiệp giáo dục chung cả nước. Sự nhiệt huyết và cộng đồng trách nhiệm này có thể được chứng tỏ một phần qua sự xuất hiện của hàng loạt sách báo, tạp chí, bài viết rất phong phú đa dạng bàn về công tác giáo dục, mà nội dung chủ yếu thiên về phê bình những mặt yếu kém nhiều hơn là tô hồng mặt ưu điểm của nền giáo dục đương thời với hy vọng khắc phục, sửa chữa hầu tìm ra cho nó một hướng đi ngày càng thích hợp khả dĩ vừa phục vụ tốt cho công cuộc duy trì/ phát huy tinh hoa truyền thống văn hóa đạo đức của dân tộc vừa đáp ứng được kịp thời nhu cầu phát triển kinh tế của quốc gia [...] Với triết lý giáo dục nhân bản, được chính thức ghi luôn vào [[Hiến pháp Việt Nam Cộng hòa 1967|Hiến pháp 1967]], nền giáo dục miền Nam rõ ràng muốn đào tạo nên những con người có trách nhiệm với cộng đồng, trong xã hội dân chủ, luôn biết tôn trọng khế ước xã hội, yêu nước, thương dân, có lòng bác ái vị tha đối với đồng loại [...] Tuy nhiên, triết lý nhân bản có lẽ cũng là một trong những lý do làm cho con người dễ bị yếu mềm và giảm sức chiến đấu, khi phải đối đầu với những tình huống đấu tranh gay go ác liệt, hoặc tận mắt chứng kiến những cảnh đau thương, đổ máu.''"<ref>{{chú thích tạp chí |last=Trần Văn Chánh |first= |authorlink= |coauthors= |year= 2014 |month= |title=Giáo dục miền Nam Việt Nam (1954-1975) trên con đường xây dựng và phát triển|journal=Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển |volume= |issue=7-8 |pages= 4-52 |id= |url=http://www.vjol.info/index.php/ncpt-hue/article/view/18251 |accessdate=2014-05-10}}</ref>
== Xem thêm ==
|