Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Triều Pagan”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Đang viết
Đang viết
Dòng 45:
|flag_type =
|image_coat =
|image_map = ĐếPagan chế PaganEmpire -- Sithu II.PNG
|symbol =
|symbol_type =
|image_map_caption = Pagan Empire circakhoảng năm 1210. <br> Đế chế Pagan Empirethời duringvua [[Narapatisithu|Sithu II]]'s reign. BurmeseBiên chroniclesniên alsosử claimngười Miến tuyên bố lãnh thổ gồm cả Kengtung and Chiang Mai. CoreVùng areaslõi shown invàng darker yellowsẫm. PeripheralVùng areasbiên inmàu lightvàng yellownhạt. PaganPagat sát nhập incorporatedcảng keybiển portsvùng ofHạ LowerMiến Burmavào intovùng itslõi corekiểm administrationsoát byvào thethế 13thkỷ century13.
|capital = [[Bagan|Pagan]] (Bagan) (849–1297)
|common_languages = [[BurmeseTiếng Miến languageĐiện|Burmese]], [[MonTiếng languageMôn|Mon]], [[Pyu languageTiếng (Burma)Môn|Pyu]]
|religion = [[TheravadaPhật Buddhismgiáo nguyên thủy]], [[MahayanaĐại Buddhismthừa|Phật giáo Đại thừa]], [[AnimismThuyết vật linh]], [[HinduismĐạo Hindu]]
|government_type = MonarchyQuân chủ
|leader1 = [[Anawrahta]]
|year_leader1 = 1044–1078
Dòng 75:
== Lịch sử ==
===Khởi nguyên===
[[Tập tin:Anawrahta at National museum.JPG|thumb|left|200px170px|Vua [[Anawrahta]], vị vua sáng lập nên Đế chế Pagan, và thống nhất các vùng lãnh thổ tương đương Myanma ngày nay.]]
 
Biên niên sử của người Miến đã ghi chép lại rằng vương quốc được thành lập vào thế kỷ thứ 2. Ban đầu nó là 1 vương quốc nhỏ bé, với thủ đô tọa lạc tại [[Arimaddana Pura]], [[Thiri Pyissaya]], [[Tampawaddy]] và đến năm 849 thì thủ đô chuyển về Pagan. Thị quốc Pagan được thành lập vào giữa thế kỷ thứ 9 bởi [[người Miến]] di cư từ vương quốc [[Nam Chiếu]]<ref>[[Vân Nam]] ngày nay</ref><ref name=vbl-88>{{chú thích sách | author=Victor B Lieberman | title= Strange Parallels: Southeast Asia in Global Context, c. 800–1830, volume 1, Integration on the Mainland | year=2003 | publisher=Cambridge University Press | pages=88–112 | isbn=978-0-521-80496-7}}</ref><ref name=rlf-56>{{chú thích sách | title=The River of Lost Footsteps—Histories of Burma | author=[[Thant Myint-U]] | year=2006 | publisher=Farrar, Straus and Giroux | isbn=978-0-374-16342-6, 0-374-16342-1 | page=56}}</ref>.
 
Khởi nguyên của vương quốc Pagan đã được tái xây dựng lại dựa trên bằng chứng khảo cổ học, cũng như ghi chép lịch sử và truyền miệng. Có sự khác biệt lớn tồn tại giữa quan điểm hiện đại và các nguồn lịch sử dân gian.
 
===Truyền thuyết dân gian===
Các ghi chép của người Miến không thống nhất về khởi nguyên của vương quốc Pagan. Ghi chép vào thế kỷ 18 truy về năm 167, người con của thần mặt trời và bà chúa rồng đã lập ra vương quốc Pagan.
 
Vào thế kỷ 19, cuốn quốc sử của [[triều Konbaung]] là [[Hmannan Maha Yazawindawgyi]] đã kết nối nguồn gốc của vương quốc Pagan tới dòng dõi của [[Thích Ca Mâu Ni]] và là con cháu của vị vua đạo Phật đầu tiên [[Maha Sammata]]<ref name=tt-1964-ix-x>Than Tun 1964: ix–x</ref><ref name=vbl-196>Lieberman 2003: 196</ref>. [[Hmannan Maha Yazawindawgyi]].
 
Theo đó thị tộc [[Sakya]]<ref>1 thị tộc cổ đại [[thời kỳ Vedic]] (khoảng 1750–500 TCN) tại vùng thuộc Ấn Độ ngày nay.</ref> đã theo hoàng tử [[Abhiyaza]] của vương quốc [[Kosala]]<ref>Vương quốc cổ đại tại Ấn Độ, gần như tương đương với Awadh, vùng lõi của bang Uttar Pradesh ngày nay</ref> rời bỏ quê hương năm 850 TCN sau thất bại chiến tranh với [[vương quốc Panchala]] kế bên. Họ đã lập nên vương quốc Tagaung tại vùng thượng Miến ngày nay. Cuốn sử này không xác nhận vị hoàng tử này đã đi đến vùng đất không người ở, mà chỉ đề cập rằng ông là vị vua đầu tiên<ref name=tmu-44-45>Myint-U 2006: 44–45</ref>.
 
Abhiraja có 2 người con trai, người con lớn là [[Kanyaza Gyi]] phiêu lưu về phía Nam thành lập [[vương quốc Arakan]] vào năm 825. Người con nhỏ thừa kế nghiệp vua của cha, và theo đó là 31 vị vua của triều đại này và triều đại khác với 17 vị vua.
 
Năm 483 TCN, dòng dõi nhà Tagaung tiếp tục đi xa hơn về phía Nam châu thổ Irrawaddy và thành lập vương quốc Sri Ksetra<ref>Trung tâm của nó thuộc [[Pyay]] ngày nay</ref>. Sri Ksetra tồn tại trong suốt 6 thế kỷ và kế thừa nó là triều Pagan<ref name=tmu-44-45/>. Cuốn sử đã ghi lại rằng năm 107 [[Thamudarit]], cháu của vị vua cuối cùng của [[Sri Ksetra]] đã gây dựng nên thành phố Pagan (Tên chính thức: Arimaddana-pura. Nghĩa là: Thành phố đè bẹp mọi kẻ thù).
 
 
 
Biên niên sử của người Miến đã ghi chép lại rằng vương quốc được thành lập vào thế kỷ thứ 2. Ban đầu nó là 1 vương quốc nhỏ bé, với thủ đô tọa lạc tại [[Arimaddana Pura]], [[Thiri Pyissaya]], [[Tampawaddy]] và đến năm 849 thì thủ đô chuyển về Pagan. Thị quốc Pagan được thành lập vào giữa thế kỷ thứ 9 bởi [[người Miến]] di cư từ vương quốc [[Nam Chiếu]]<ref>[[Vân Nam]] ngày nay</ref><ref name=vbl-88>{{chú thích sách | author=Victor B Lieberman | title= Strange Parallels: Southeast Asia in Global Context, c. 800–1830, volume 1, Integration on the Mainland | year=2003 | publisher=Cambridge University Press | pages=88–112 | isbn=978-0-521-80496-7}}</ref><ref name=rlf-56>{{chú thích sách | title=The River of Lost Footsteps—Histories of Burma | author=[[Thant Myint-U]] | year=2006 | publisher=Farrar, Straus and Giroux | isbn=978-0-374-16342-6, 0-374-16342-1 | page=56}}</ref>.
 
Người Miến tại Pagan đã phát triển hệ thống tưới tiêu, trồng trọt. Thị quốc này là 1 trong nhiều thị quốc cạnh tranh nhau của vương quốc Pyu cho đến cuối thế kỷ thứ 10 khi thị quốc này bắt đầu xâm chiếm các thị quốc xung quanh. Vào thời kỳ 1050-1060 đã xảy ra sự mở rộng mau chóng khi vua [[Anawrahta|Anawrahta Minsaw]] lập nên đế quốc Pagan. Đế quốc đầu tiên thống nhất được vùng châu thổ [[sông Ayeyarwaddy]] và các vùng lãnh thổ lân cận.