Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Triện thư”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 1:
{{Hán tự}}
[[Tập tin:Seal Eg.png|200px|nhỏ|Trái|Triện thư viết bằng kiểu chữ thông thường và kiểu chữ triện]]
'''Triện thư''' ([[tiếng Trung Quốc|tiếng Trung]]:giản thể: 篆书; phồn thể: 篆書, [[bính âm Hán ngữ|bính âm]]: zhuànshū), hay '''chữ triện''', là một kiểu chữ [[thư pháp Trung Hoa|thư pháp Trung Quốc]] cổ. Đây là loại chữ tượng hình có nguồn gốc từ [[chữ giáp cốt]] thời [[nhà Chu]] và phát triển ở nước Tần trong thời kì Chiến quốc. Kiểu chữ triện của nhà Tần trở thành dạng chữ viết chính thức cho toàn Trung Quốc dưới thời nhà Tần và tiếp tục được sử dụng rộng rãi để khắc trang trí trên các ấn tín dưới thời [[nhà Hán]].
 
Triện thư chia làm hai loại: '''đai triện''' và '''tiểu triện'''. Đại triện (大篆) là thể chữ phát triển từ [[Kim văn]], lưu hành vào thời [[Tây Chu]], không thống nhất và có nhiều dị thể ở các nước khác nhau. Tiểu triện (小篆) hay Tần triện (秦篆) là lối chữ phát triển từ Đại triện, ra đời từ khi Tần Thuỷ Hoàng thống nhất sáu nước và đề ra chính sách thống nhất văn tự. Đây có thể coi là kiểu chữ thống nhất đầu tiên của Trung Quốc, do đó, khi nhắc đến triện thư thường là đề cập đến tiểu triện nhiều hơn. Tiểu triện được sử dụng từ khi [[nhà Tần]] thành lập đến khoảng thời [[Tây Hán]], sau đó bi thay thế bởi [[Lệ thư]] với lối viết đơn giản hơn.
Ngày nay hầu hết mọi người không đọc được chữ triện, nó chủ yếu được dùng để khắc con dấu và viết thư pháp.
 
Chữ triện chủ yếu được dùng để khắc con dấu vì độ phức tạp cao và đặc tính hình dáng khiến cho chữ rất khó giả mạo. Ngoài ra, nhờ tính thẩm mỹ đặc thù, chữ triện còn được dùng để viết thư pháp.
 
== Triện thư và chữ Hán ngày nay ==
Trải qua quá trình thay đổi suốt mấy ngàn năm lịch sử, chữ triện và chữ Hán ngày nay (bộ [[chữ Hán phồn thể|phồn thể]] nói riêng) đã có sự khác biệt rất lớn tuy vẫn còn nhiều nét tương đồng có thể nhận ra được.
{{Gallery
|width=60