Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Chiến tranh Lạnh (1953–1962)”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n replaced: {{bài chính| → {{chính| (7) using AWB |
n viết hoa, replaced: Liên xô → Liên Xô (80) |
||
Dòng 2:
[[Tập tin:Cold War Map 1959.svg|phải|nhỏ|550px|Bản đồ Thế giới năm 1962 với các phe liên kết]]
{{Lịch sử Chiến tranh Lạnh}}
Bài '''Chiến tranh Lạnh (1953–1962)''' nói về một giai đoạn trong cuộc [[Chiến tranh Lạnh]] từ khi lãnh tụ [[Liên Xô
==Eisenhower và Khrushchev==
<!-- Commented out: [[Hình:NikitaKhrushchev.jpg|nhỏ|phải|250px|Stalin mất đầu tháng 3 năm 1953. Nikita Khrushchev, phía trên, nổi lên trở thành nhà lãnh đạo Liên
Khi [[Dwight D. Eisenhower]] tuyên thệ nhậm chức [[Tổng thống Hoa Kỳ]] năm 1953, [[Đảng Dân chủ (Hoa Kỳ)|Đảng Dân chủ]] đã mất quyền kiểm soát chức vụ này sau hai mươi năm. Tuy nhiên, dưới thời Eisenhower, chính sách thời Chiến tranh Lạnh của Mỹ vẫn hầu như không thay đổi. Tuy việc xem xét lại toàn diện chính sách đối ngoại đã được đưa ra (được gọi là "Chiến dịch Nhà tắm nắng"), đa số những ý tưởng nổi lên (như "hạ cấp của Chủ nghĩa Cộng sản" và việc giải phóng [[Đông Âu]]) nhanh chóng bị coi là không có khả năng thực hiện. Một sự tập trung bên dưới trên [[chính sách ngăn chặn]] chủ nghĩa cộng sản Liên
Một phần quan trọng của chính trị Mỹ trong giai đoạn này là [[Chủ nghĩa McCarthy]]. Được đặt theo tên Thượng nghị sĩ bang [[Wisconsin]] Joseph McCarthy, đây là một giai đoạn [[chống chủ nghĩa cộng sản]] mạnh kéo dài từ năm 1948 tới khoảng năm 1956. Chính phủ Hoa Kỳ đã truy tố lãnh đạo của [[Đảng Cộng sản Hoa Kỳ|Đảng Cộng sản Mỹ]] cũng như các cá nhân khác bị nghi ngờ là cộng sản. Sự nghiệp của McCarthy đi xuống năm 1954 khi những buổi điều trần của ông lần đầu tiên được truyền trên TV, cho phép công chúng và báo chí thấy được các chiến lược của ông.
Trong khi việc chuyển tiếp chức vụ tổng thống từ [[Harry S. Truman|Truman]] sang Eisenhower vốn là một nhân vật bảo thủ ôn hoà, sự thay đổi tại Liên bang Xô viết rất rộng lớn. Với cái chết của Joseph Stalin (người đã lãnh đạo Liên
Trong một giai đoạn lãnh đạo tập thể nối tiếp sau đó, Khrushchev dần củng cố quyền lực. Trong một [[Phát biểu bí mật|bài phát biểu bí mật]][http://www.fordham.edu/halsall/mod/1956khrushchev-secret1.html] trong phiên họp kín của [[Đại hội Đảng Cộng sản Liên
Sự tác động trên chính trị Xô viết rất to lớn. Bài phát biểu đã gạt bỏ các đối thủ theo chủ nghĩa Stalin cuối cùng của Khrushchev, khiến họ mất đi tính pháp lý chỉ trong một hành động duy nhất, tăng cường vai trò của Thư ký thứ nhất bên trong nước. Sau đó Khrushchev đã có thể nới lỏng các hạn chế, trả tự do một số người bất đồng và đưa ra các chính sách kinh tế nhấn mạnh trên hàng hoá thương mại chứ không phải trên việc sản xuất [[than (định hướng)|than]] và [[thép]].
Dòng 18:
==Chiến lược của Hoa Kỳ - "Trả đũa hàng loạt" và "bên miệng hố chiến tranh"==
===Các chủ đề xung đột===
Khi Eisenhower nhậm chức năm 1953, ông cam kết với hai mục tiêu trái ngược nhau: duy trì — hay thậm chí tăng cường — cam kết quốc gia đẩy lui sự mở rộng ảnh hưởng của Liên
Eisenhower được thừa hưởng từ chính quyền Truman một ngân sách quốc phòng khoảng US$42 tỷ, cũng như một bản thảo (NSC-141) của Acheson, Harriman, và Lovett kêu gọi tăng thêm $7–9 tỷ ngân sách quốc phòng.<ref>Hoopes, p. 193</ref> Với Bộ trưởng tài chính [[George Humphrey]] dẫn đường, và được tăng cường thêm sức ép từ [[Thượng viện Hoa Kỳ|Thượng nghị sĩ]] [[Robert Taft]] và mong muốn cắt giảm chi phí của Hạ viện [[Đảng Cộng hoà Mỹ|do các nghị sĩ Cộng hoà chiếm đa số]], mục tiêu cho năm tài chính mới (có hiệu lực từ ngày [[1 tháng 7]] năm [[1954]]) là giảm xuống còn $36 tỷ. Tuy việc ngừng chiến ở Triều Tiên là cơ hội để giảm đáng kể việc triển khai binh lính và chi phí, Bộ quốc phòng vẫn ở trong trạng thái mong đợi được tăng thêm ngân sách. Humphrey muốn có một ngân sách cân bằng và cắt giảm thuế vào tháng 2 năm 1955, và có mục tiêu cắt giảm $12 tỷ (một nửa số này từ cắt giảm chi phí quân sự).
Dòng 34:
Chính quyền đã nỗ lực hoà giải các áp lực xung đột giữa nhóm "Asia firsters" và những nỗ lực đòi cắt giảm chi tiêu liên bang trong khi tiếp tục chiến đấu có hiệu quả trong cuộc Chiến tranh Lạnh. Ngày [[8 tháng 5]] năm [[1953]], Tổng thống và các cố vấn hàng đầu của mình đã giải quyết vấn đề này trong "Chiến dịch Nhà tắm nắng", được đặt tên theo phòng tắm nắng ở [[Nhà Trắng]] nơi tổng thống tiến hành các cuộc thảo luận bí mật. Dù nó không phải là một truyền thống khi yêu cầu các quan chức quân sự xem xét các yếu tố bên ngoài lĩnh vực nghề nghiệp của họ, Tổng thống đã chỉ thị cho nhóm thực hiện một sự cân bằng tốt đẹp giữa các mục tiêu của ông là cắt giảm chi tiêu chính phủ và một tình thế quân sự lý tưởng.
Nhóm đã cân nhắc ba khả năng chính sách cho ngân sách quân sự năm tiếp theo: các tiếp cận của Truman-Acheson về chính sách ngăn chặn và dựa vào các lực lượng quy ước; sự đe doạ trả đũa với sự "gây hấn" giới hạn của Liên
Eisenhower và nhóm (gồm [[Allen Dulles]], [[Walter Bedell Smith]], [[Charles Douglas Jackson|C.D. Jackson]], và [[Robert Cutler]]) thay vào đó lựa chọn một sự phối hợp giữa hai khả năng đầu tiên, một đảm bảo sự tiếp nối của chính sách ngăn chặn, nhưng dựa vào khả năng răn đe hạt nhân không quân của Mỹ. Đây được coi là sự tránh né khỏi những cuộc chiến tranh mặt đất có chi phí cao và không được lòng dân, như Triều Tiên.
Chính quyền Eisenhower coi bom hạt nhân là một phần không thể thiếu của chính sách quốc phòng Mỹ, hy vọng rằng chúng sẽ chống đỡ cho các khả năng của Mỹ trong cuộc đối đầu với Liên
Vì thế, chính quyền tăng số lượng đầu đạn hạt nhân từ 1,000 năm 1953 lên 18.000 đầu năm 1961. Dù có ưu thế tuyệt đối của Mỹ, một vũ khí hạt nhân được sản xuất ra thêm mỗi ngày. Chính quyền cũng tận dụng kỹ thuật mới. Năm 1955 chiếc máy bay ném bom 8 động cơ [[Boeing B-52 Stratofortress|B-52 Stratofortress]], chiếc máy bay phản lực ném bom đầu tiên được thiết kế để mang vũ khí hạt nhân, được phát triển.
Năm 1962, Hoa Kỳ có số bom và đầu đạn hạt nhân lớn gấp tám lần Liên
<ref>{{chú thích
|url=http://www.nrdc.org/nuclear/nudb/datainx.asp
Dòng 51:
Trong cuộc [[Khủng hoảng tên lửa Cuba]] Hoa Kỳ có 142 Atlas và 62 [[Titan I]] [[Tên lửa liên lục địa|ICBM]], chủ yếu trong các silo được bảo vệ ngầm dưới đất.<ref name="Races">{{cite video|title=Weapons Races: Nuclear Bomb|people=Executive Producer: Philip Nugus|publisher=Military Channel & Nugus/Martin Productions LTD.|year=2006|medium=television}}</ref>
Năm 1961, Hoa Kỳ triển khai 15 [[Jupiter (tên lửa)|Jupiter IRBM]] (tên lửa đạn đạo tầm trung) tại [[İzmir]], [[Thổ Nhĩ Kỳ]], ngắm vào các thành phố phía tây Liên
==Chiến lược của Liên
Năm 1960 và 1961, Khrushchev đã tìm cách áp đặt ý tưởng răn đe hạt nhân trong quân sự. Học thuyết răn đe hạt nhân cho rằng lý do để sở hữu các loại vũ khí hạt nhân là để ngăn chặn một kẻ thù tiềm năng sử dụng nó. Với mỗi bên đều bị răn đe để không xảy ra chiến tranh bởi mối đe doạ nó sẽ leo thang thành một cuộc xung đột hạt nhân, Khrushchev tin rằng, sự "cùng tồn tại hoà bình" với chủ nghĩa tư bản sẽ trở thành hiện thực và cho phép ưu thế cố hữu của chủ nghĩa xã hội xuất hiện trong cuộc cạnh tranh kinh tế và văn hoá với phương Tây.
Khrushchev hy vọng rằng việc dựa tuyệt đối vào vũ khí hạt nhân của [[Lực lượng Tên lửa Chiến lược]] mới được hình thành sẽ loại bỏ nhu cầu tăng các chi phí quốc phòng. Ông cũng tìm các sử dụng răn đe hạt nhân để làm lý do cho việc cắt giảm binh lính trên diện rộng của mình; ông hạ thấp các lực lượng mặt đất, theo truyền thống là "lực lượng chiến đấu" của các lực lượng vũ trang Liên
Tuy nhiên, trong cuộc [[Khủng hoảng tên lửa Cuba]] Liên bang Xô viết chỉ có bốn [[Tên lửa R-7|R-7 Semyorka]] và một ít tên lửa liên lục địa [[R-16]] được triển khai tên những bệ phóng dễ bị phá huỷ trên mặt đất.<ref name="Races"/> Năm 1962 [[tàu ngầm Đề án 658|hạm đội tàu ngầm Liên
Nỗ lực của Khrushchev nhằm đưa ra một học thuyết hạt nhân răn đe giới hạn vào trong quân đội Liên
==Sự phá huỷ được đảm bảo từ cả hai bên==
Một phần quan trọng của sự phát triển ổn định dựa trên ý tưởng [[Sự phá huỷ được đảm bảo từ cả hai bên]] (MAD). Tuy người Liên
Thực tế này thường khiến các nhà lãnh đạo ở cả hai phía rất lưỡng lự khi tạo ra nguy cơ, sợ rằng một sự bùng phát nhỏ có thể dẫn tới một cuộc chiến tranh có thể quét sạch toàn bộ nền văn minh nhân loại. Tuy thế, lãnh đạo của cả hai nước tiếp tục nhấn mạnh trên quân sự và các kế hoạch tình báo để biết được tình hình của phe đối địch. Cùng lúc ấy, những cách thức khác cũng được viện tới để quảng bá lý tưởng của mình; chúng bắt đầu gồm cả [[thể thao]] (với các kỳ [[Thế vận hội|Olympic]] trở thành một chiến trường giữa các lý tưởng cũng như giữa các vận động viên) và văn hoá (với việc các nước cổ vũ cho các [[nghệ sĩ pianio]], [[cờ vua|kỳ thủ]], và các [[đạo diễn]] phim).
Một trong những hình thức quan trọng nhất của cuộc cạnh tranh phi bạo lực là [[chạy đua vào không gian|chạy đua không gian]]. Người Liên
Ngay sau đó, người Mỹ đã có một chương trình vũ trụ của riêng họ nhưng vẫn ở phía sau Liên
Một chiến trường cạnh tranh khác của cuộc chiến tranh không thuốc súng là có được mạng lưới tình báo toàn cầu. Đã có một loạt những scandal gián điệp gây sốc ở phương Tây, đáng chú ý nhất là vụ việc liên quan tới [[Cambridge Five]]. Người
Năm 1957 CIA bắt đầu chương trình các chuyến bay do thám trên lãnh thổ Liên
==Các sự kiện Khối Đông Âu==
Dòng 80:
===Khởi nghĩa Đông Đức năm 1953===
{{chính|Khởi nghĩa Đông Đức năm 1953}}
Sau khi một lượng lớn người Đông Đức đi sang phía Tây qua "lỗ châu mai" duy nhất còn lại trong [[Di cư và đào tẩu từ Khối Đông Âu|những hạn chế di cư của Khối Đông Âu]], đoạn biên giới Berlin,<ref name="crampton278">{{Harvnb|Crampton|1997|p=278}}</ref> chính phủ Đông Đức sau đó đặt ra "các tiêu chuẩn" – sản lượng mà mỗi công nhân phải đạt được—là 10%.<ref name="crampton278"/> Những người Đông Đức vốn đã bất mãn trước những thành công kinh tế của Tây Đức bên trong Berlin, bắt đầu đứng lên<ref name="crampton278"/>, tổ chức những cuộc tuần hành đường phố và bãi công lớn.<ref name="crampton279">{{Harvnb|Crampton|1997|p=279}}</ref> Một tình trạng khẩn cấp trên diện rộng được tuyên bố và [[Hồng Quân|Hồng quân]] Liên
===Thành lập Khối hiệp ước Warsaw===
{{chính|Khối hiệp ước Warsaw}}
Năm 1955, [[Khối Warszawa|Khối hiệp ước Warsaw]] được thành lập để đối đầu với [[NATO]], đã gồm cả [[Tây Đức]], và một phần bởi người Liên
===Những cuộc phản kháng tại Ba Lan năm 1956===
Dòng 91:
===Cách mạng Hungary năm 1956===
{{chính|Cách mạng Hungary năm 1956}}
Sau khi nhà độc tài kiểu Stalin Mátyás Rákosi bị thay thế bởi [[Imre Nagy]] sau cái chết của Stalin<ref>{{cite paper | author=János M. Rainer | title = Stalin and Rákosi, Stalin and Hungary, 1949–1953 | date = Paper presented on 4 tháng 10 năm 1997 at the workshop "European Archival Evidence. Stalin and the Cold War in Europe", Budapest, 1956 Institute | url =http://www.rev.hu/index_en.html | accessdate = 2006-10-08 }}</ref> và nhà cải cách người [[Cộng hoà Nhân dân Ba Lan|Ba Lan]] [[Władysław Gomułka]] thực hiện một số yêu cầu cải cách<ref name = satellite>{{chú thích web | title = Notes from the Minutes of the CPSU CC Presidium Meeting with Satellite Leaders, 24 tháng 10 năm 1956 | work = The 1956 Hungarian Revolution, A History in Documents | publisher = George Washington University: The National Security Archive | date = 4 tháng 11 năm 2002 | url = http://www.gwu.edu/~nsarchiv/NSAEBB/NSAEBB76/doc5.pdf | format = PDF | accessdate = 2006-09-02}}</ref>, một lượng lớn người biểu tình Hungary đưa ra một danh sách [[Các yêu cầu của Cách mạng Hungary năm 1956]]<ref name=sixteen>Internet Modern History Sourcebook: Resolution by students of the Building Industry Technological University: [http://www.fordham.edu/halsall/mod/1956hungary-16points.html Sixteen Political, Economic, and Ideological Points, Budapest, 22 tháng 10 năm 1956] Truy cập 22 tháng 10 năm 2006</ref>, gồm cả việc bầu cử tự do, các hội đồng độc lập và điều tra các hành động của Stalin và Rákosi tại Hungary. Theo lệnh của Bộ trưởng quốc phòng Liên
Chính phủ mới lên nắm quyền lực trong cuộc cách mạng chính thức giải tán [[ÁVH|cảnh sát mật Hungary]], tuyên bố ý định rút khỏi [[Khối Warszawa|Khối hiệp ước Warsaw]] và cam kết tái lập bầu cử tự do. [[Bộ chính trị Uỷ ban Trung ương Đảng Cộng sản Liên
===Khủng hoảng Berlin năm 1961===
{{chính|Khủng hoảng Berlin năm 1961}}
[[Tập tin:Checkpoint Charlie 1961-10-27.jpg|nhỏ|300px|Xe tăng [[Liên Xô
Địa điểm có tầm quan trọng hàng đầu vẫn là [[Đức]] sau khi [[Khối Đồng Minh thời Chiến tranh thế giới thứ hai|Đồng Minh]] sáp nhập các vùng chiếm đóng của họ để hình thành nên [[Đức|Cộng hoà Liên bang Đức]] năm 1949. Để trả đũa, Liên
Đức là một vấn đề quan trọng bởi nó được coi là trung tâm quyền lực của lục địa, và cả hai bên tin rằng nó cũng là yếu tố then chốt cho sự cân bằng quyền lực thế giới. Tuy cả hai phía đều muốn một nước Đức thống nhất trung lập, những nguy cơ nó rơi vào tay phe đối thủ với cả hai phía là rất lớn, và vì thế các vùng chiếm đóng tạm thời thời hận chiến đã trở thành các biên giới cố định.
Tháng 11 năm 1958, Thủ tướng Liên
Năm 1959 Liên
Tuy nhiên, tháng 6 năm 1961 Thủ tướng Khrushchev đã tạo ra một cuộc khủng hoảng mới về vị thế của Tây Berlin khi ông một lần nữa đe doạ ký một hiệp ước hoà bình riêng rẽ với Đông Đức, mà ông nói, sẽ chấm dứt các thoả thuận bốn cường quốc đảm bảo quyền tiếp cận của Mỹ, Anh và Pháp với Tây Berlin. Ba cường quốc đáp trả rằng không một hiệp ước đơn phương nào có thể thủ tiêu các quyền lợi và trách nhiệm của họ ở Tây Berlin, gồm cả quyền tiếp cận không bị giới hạn với thành phố này.
Dòng 112:
Khi sự đối đầu về vấn đề Berlin leo thang, ngày 25 tháng 7 Tổng thống Kennedy đã yêu cầu tăng cường sức mạnh quân đội từ 875.000 lên xấp xỉ 1 triệu người, cùng với việc gia tăng 29.000 và 63.000 lính trong lực lượng phục vụ thường xuyên của Hải quân và Không quân. Ngoài ra, ông ra lệnh các cuộc điện thoại chiến thuật phải được lưu lại, và yêu cầu Hạ viện trao quyền ra lệnh hoạt động tích cực với một số đơn vị dự trữ và cá nhân dự bị. Ông cũng yêu cầu những khoản vốn mới để xác định và đánh dấu khoảng không trong các cơ cấu sẵn có có thể được sử dụng dùng làm nơi trú ẩn trong trường hợp xảy ra tấn công, lưu trữ tại đó lương thực, nước uống và các bộ cấp cứu y tế cùng các đồ dùng tối cần thiết khác cho cuộc sống, và cải tiến các hệ thống cảnh báo trên không và phát hiện bụi phóng xạ.
Trong những tháng đầu năm 1961, chính phủ tích cực tìm kiếm các biện pháp tạm dừng các cuộc di cư của dân chúng tới phương Tây. Tới đầu mùa hè năm 1961, Chủ tịch Đông Đức Walter Ulbricht đã công khai thuyết phục người Liên
Trong mùa xuân và đầu mùa hè, chế độ Đông Đức chuẩn bị và tích trữ các vật liệu xây dựng để dựng lên [[Bức tường Berlin]]. Dù hành động trên diện rộng này đã được tất cả các bên biết tới, ít người bên ngoài các nhân vật lập kế hoạch của Liên
Ngày [[15 tháng 6]] năm [[1961]], hai tháng trước khi việc xây dựng Bức tường Berlin bắt đầu, Thư ký thứ nhất của [[Đảng Thống nhất Xã hội chủ nghĩa Đức|Đảng Thống nhất Xã hội chủ nghĩa]] và chủ tịch [[Staatsrat]] [[Walter Ulbricht]] đã nói trong một cuộc họp báo quốc tế, ''"Niemand hat die Absicht, eine Mauer zu errichten!" (Không ai có ý định dựng lên một bức tường)''. Đây là lần đầu tiên thuật ngữ ''Mauer'' (bức tường) đã được sử dụng trong ngữ cảnh này.
Dòng 124:
Ngày 30 tháng 8 năm 1961, Tổng thống John F. Kennedy đã ra lệnh huy động 148.000 Vệ binh và Quân dự bị để trả đũa các hành động cắt đường tiếp cận Berlin của Đông Đức. Lực lượng không quân được tăng thêm 21.067 người sau lệnh động viên này. Các đơn vị ANG được huy động trong tháng 10 gồm 18 phi đội chiến đấu chiến thuật, 4 phi đội trinh sát chiến thuật, 6 phi đội vận tải đường không, và một nhóm kiểm soát chiến thuật. Ngày 1 tháng 11, Không quân huy động ba phi đội máy bay chiến đấu đánh chặn ANG nữa. Cuối tháng 10 và đầu tháng 11, tám trong số các phi đội máy bay chiến đấu chiến thuật đã được điều sang châu Âu với 216 máy bay của chúng trong chiến dịch "Bước Bậc thang," sự triển khai máy bay phản lực lớn nhất trong lịch sử Không quân. Bởi vì có tầm hoạt động ngắn, 60 máy bay đánh chặn F-104 của Không quân đã được không vận tới châu Âu vào cuối tháng 11. Không quân Hoa Kỳ tại châu Âu (USAFE) không có các phụ tùng cẩn thiết cho những chiếc máy bay F-84 và F-86 đã già cỗi của ANG. Một số đơn vị đã được huấn luyện để mang theo các vũ khí hạt nhân chiến thuật, chứ không phải các loại bom và hàng hoá thông thường. Họ phải được huấn luyện lại cho các phi vụ quy ước một khi đã tới châu Âu. Đa số lính không quân được huy động vẫn ở lại bên trong nước Mỹ. [http://www.globalsecurity.org/military/ops/berlin.htm]
Bốn cường quốc chiếm đóng Berlin ([[Pháp]], [[Liên Xô
Những nỗ lực của một nhà ngoại giao Mỹ vào Đông Berlin được quân đội Mỹ hỗ trợ. Điều này dẫn tới một sự cảnh giác giữa xe tăng Mỹ và Đông Đức tại [[Chốt gác Charlie]] ngày 27-28 tháng 10 năm 1961. Sự cảnh giác này chỉ được giải quyết sau những cuộc đàm phán trực tiếp giữa Ulbricht và Kennedy.
Dòng 130:
Khủng hoảng Berlin là sự kiện trong đó quân đội Đông Đức và quân đội Mỹ đã đối mặt nhau, cho tới khi chính phủ Đông Đức lùi bước. Vụ khủng hoảng chấm dứt vào mùa hè năm 1962 và binh lính quay trở lại Mỹ. [http://www.globalsecurity.org/military/ops/berlin.htm]
Trong cuộc khủng hoảng [[KGB]] đã chuẩn bị kế hoạch phá hoại chi tiết và tung tin giả "nhằm tạo ra một tình thế ở nhiều khu vực của thế giới sẽ dẫn tới sự phân tán sự chú ý và các lực lượng của Hoa Kỳ và đồng minh của họ, và sẽ buộc họ phải lùi bước trong quá trình giải quyết vấn đề hiệp ước hoà bình Đức và Tây Berlin". Ngày 1 tháng 8 năm 1961 kế hoạch này được [[Uỷ ban Trung ương Đảng Cộng sản Liên
==Cuba==
Dòng 147:
Hy vọng lặp lại thành công của Guatemala và Iran năm 1961, CIA, viện dẫn cuộc di tản quy mô lớn tới Hoa Kỳ sau khi Castro lên nắm quyền, đã huấn luyện và trang bị một nhóm người Cuba lưu vong đổ bộ xuống [[Vịnh con Lợn]] nơi họ tìm cách tạo ra một cuộc khởi nghĩa chống chế độ Castro. Tuy nhiên, cuộc tấn công đã thất bại nặng nề. Sau đó, Casto công khai tuyên bố ông là một người Marxist-[[Chủ nghĩa Leni|Leninist]] và tạo lập Cuba trở thành [[nhà nước Cộng sản]] đầu tiên tại châu Mỹ và tiếp tục quốc hữu hoá các ngành công nghiệp chính của đất nước.
Chính phủ Liên
Để trả đũa, Tổng thống John F. Kennedy cách ly hòn đảo, và sau nhiều ngày căng thẳng người Liên
Cuộc cách mạng Cuba dẫn tới sáng kiến của Kennedy về chương trình "[[Liên minh Phát triển]]". Chương trình này có mục tiêu cung cấp khoản vay và trợ giúp hàng tỷ dollar trong thập niên 1960 để phát triển kinh tế nhằm ngăn chặn các mạng [[hệ thống xã hội chủ nghĩa|xã hội chủ nghĩa]]. Liên minh cũng bao gồm các biện pháp chống nổi dậy, như việc thành lập Trường Chiến tranh Rừng rậm tại [[Vùng Kênh Panama]] và việc huấn luyện các lực lượng cảnh sát.
Dòng 165:
Trong một bối cảnh quốc tế như vậy, Liên bang Xô viết đã truyền bá một vai trò như nước lãnh đạo của phe "chống đế quốc", thu hút sự chú ý của Thế giới thứ ba như một đối thủ đáng tin cậy của chủ nghĩa đế quốc chứ không phải nhiều quốc gia đã có độc lập ở châu Phi và châu Á. Khrushchev đã mở rộng chính sách của Moscow bằng cách thiết lập các quan hệ mới với [[Ấn Độ]] và các quốc gia thành viên quan trọng khác của phong trào không liên kết và các nước phi cộng sản khác trong khắp Thế giới thứ ba. Nhiều quốc gia thuộc [[Phong trào không liên kết]] đã phát triển các mối quan hệ thân cận với [[Moskva]].
Trong một cuộc diễn tập các chính sách "hạ giá" mới, theo các học thuyết của Dulles, Eisenhower đã cản trở sự can thiệp của Liên
===Các khối hiệp ước quốc phòng===
Dòng 174:
Tuy nhiên, nhiều quốc gia thế giới thứ ba không muốn gia nhập với bất kỳ cường quốc nào. [[Phong trào không liên kết]], dẫn đầu bởi Ấn Độ, [[Ai Cập]], và [[Áo]], tìm cách thống nhất thế giới thứ ba chống lại cái bị coi là chủ nghĩa đế quốc bởi cả phương Đông và phương Tây.
===Ảnh hưởng Liên
Dulles, cùng với hầu hết các nhà hoạch định chiến lược của Hoa Kỳ thời kỳ này, coi nhiều nhân vật quốc gia và "các mạng" của thế giới thứ ba là chủ yếu nằm dưới tầm ảnh hưởng, nếu không nói là tầm kiểm soát của Khối hiệp ước Warsaw. Trớ trêu thay, trong cuốn ''Chiến tranh, Hoà bình và Thay đổi'' (1939), ông đã gọi [[Mao Trạch Đông]] là một "nhà cải cách nông nghiệp," và trong Thế chiến II ông đã gọi những người theo Mao là "cái gọi là 'phái Hồng quân của Mao'." <ref>Pruessen, p. 441</ref> Nhưng ông không còn được công nhận là có các nguồn ngốc bản xứ nữa trong [[Đảng Cộng sản Trung Quốc]] ở năm 1950. Trong ''Chiến tranh và Hoà bình'', một tác phẩm đầy ảnh hưởng bác bỏ các chính sách ngăn chặn của chính quyền Truman, và tán thành một chương trình "giải phóng" tích cực, ông đã viết:
:Vì thế 450.000.000 người ở Trung Quốc đã ngã xuống dưới sự lãnh đạo chống Mỹ cuồng nhiệt, và thực hiện nó dưới sự ảnh hưởng và hướng dẫn từ Moscow... giới lãnh đạo Liên
Phía sau vũ đài, Dulles có thể giải thích các chính sách của ông theo địa chính trị. Nhưng trước công chúng, ông sử dụng các lý do đạo đức và tôn giáo mà ông tin rằng người Mỹ thích nghe, thậm chí ông thường bị chỉ trích bởi những nhà quan sát trong nước và nước ngoài vì vì ngôn ngữ mạnh của mình.
Hai trong những nhân vật hàng đầu ở giai đoạn giữa hai cuộc chiến và đầu thời kỳ Chiến tranh Lạnh xem xét các quan hệ quốc tề từ một quan điểm "[[Chủ nghĩa hiện thực (quan hệ quốc tế)|hiện thực]]", nhà ngoại giao [[George F. Kennan|George Kennan]] và nhà lý luận [[Reinhold Niebuhr]], đã rất bận tâm tới chủ nghĩa đạo đức của Dulles và phương pháp theo đó ông phân tích cách hành xử của Liên
:<small>Điều gì mới, điều gì tạo ra các cuộc khủng hoảng đang diễn ra, là sự phân cực quyền lực vốn chắc chắn gây xung đột giữa xã hội nô lệ và xã hội tự do… Liên
===Mossadegh và CIA tại Iran===
Dòng 222:
===Khủng hoảng kênh Suez===
{{chính|Khủng hoảng kênh Suez}}
Trung Đông trong Chiến tranh Lạnh là một vũ đài rất quan trọng và cũng rất không ổn định. Vùng này nằm trực tiếp phía nam [[Thổ Nhĩ Kỳ]] và [[Iran]] nơi Liên
Kế hoạch ban đầu của Mỹ về Trung Đông là hình thành nên một vành đai phòng vệ dọc theo biên giới phía bắc của vùng. Vì thế Thổ Nhĩ Kỳ, Iraq, Iran, và Pakistan đã ký Hiệp ước Baghdad và gia nhập CENTO. Phương Đông trả đũa bằng cách tìm kiếm ảnh hưởng tại các quốc gia như [[Syria]] và [[Ai Cập]]. Tiệp Khắc và Bulgaria lập các hợp đồng vũ khí với Ai Cập và Syria, khiến các thành viên Khối hiệp ước Warsaw có sự hiện diện mạnh trong vùng. Ai Cập, một nước bảo hộ cũ của Anh, là một trong những nước quan trọng nhất trong vùng với dân số lớn và quyền lực chính trị bao trùm cả vùng. Các lực lượng Anh đã bị Tướng [[Gamal Abdel Nasser]] loại bỏ năm 1956, khi ông quốc hữu hoá [[Kênh đào Suez|Kênh Suez]]. Syria là một nước bảo hộ cũ của Pháp.
Dòng 231:
===Nam Á===
[[Tiểu lục địa Ấn Độ]], có lẽ ngoại trừ trong [[Liên
Có một số lý do chiến lược để dính líu tới Nam Á. Người Mỹ hy vọng các lực lượng vũ trang [[Pakistan]] có thể được sử dụng để ngăn chặn bất kỳ sự xâm nhập nào của Liên
Một sự kiện quan trọng ở vũ đài Nam Á của cuộc cạnh tranh thời Chiến tranh Lạnh và việc ký kết [[Thoả thuận Hỗ trợ Quốc phòng Song phương]] giữa Pakistan và Hoa Kỳ năm 1954. Hiệp ước này sẽ hạn chế các lựa chọn sau này của mọi cường quốc lớn trong vùng. Hoa Kỳ cam kết duy trì quan hệ chặt chẽ với Pakistan. Với Pakistan, liên minh với Hoa Kỳ trở thành một giáo lý trung tâm của chính sách đối ngoại của họ, và dù có nhiều bất mãn với nó, nó vẫn luôn được coi là một mối quan hệ quá có giá trị để từ bỏ. Sau cuộc [[chia rẽ Trung-Xô]], Pakistan cũng theo đuổi các quan hệ với Trung Quốc.
Chính sách của Liên
Tuy nhiên, [[Jawaharlal Nehru]] vẫn còn hoài nghi, và vì nhiều lý do ông muốn trãnh những vướng mắc với Hoa Kỳ và ông cũng muốn giữ Ấn Độ không bị lệ thuộc quá nhiều vào Liên
Tới cuối những năm 1960s, những nỗ lực phát triển của Ấn Độ một lần nữa trở nên trì trệ. Một sự thâm hụt tài khoản vãng lai lớn xuất hiện và một trận hạn hán nghiêm trọng ảnh hưởng nặng nề tới ngành nông nghiệp. Như với sự suy giảm của một thập kỷ trước đó, Ấn Độ một lần nữa lại tìm kiếm sự giúp đỡ từ bên ngoài. Tuy nhiên, các quan hệ khi ấy đã ở mức rất thấp với Hoa Kỳ, nước đang rất bận tâm tới Việt Nam. Trên hết, nhiều vấn đề nhỏ hơn khác đã khiến sự dửng dưng của Hoa Kỳ trở thành ác cảm. Các tổ chức quốc tế phương Tây như [[Ngân hàng Thế giới]] cũng không muốn cam kết các khoản tiền cho các dự án phát triển ở Ấn Độ nếu không có những nhượng bộ về thương mại của họ.
Cùng với các quốc gia Khối hiệp ước Warsaw khác, người Liên
====Nam Á và cuộc Chia rẽ Trung-Xô====
Trước cuộc chia rẽ Trung-Xô, những căng thẳng giữa Ấn Độ và Trung Quốc đã cản trở những cố gắng của Liên
Cuộc xâm lược Tây Tạng của Trung Quốc tạo ra một sự đối đầu nguy hiểm hơn nhiều giữa Ấn Độ và Trung Quốc. Ngày [[29 tháng 8]] năm [[1959]], Thủ tướng Nehru thông báo với nghị viện Ấn Độ rằng quân đội Trung Quốc đã xâm lược Ấn Độ từ cả hai sườn của Tây Tạng và đã chiếm giữ nhiều đồn biên phòng. Dẫn ra những căng thẳng với Ấn Độ trong nhiều năm qua, Trung Quốc tiết lộ rằng họ không còn chấp nhận [[Đường McMahon]] giữa Trung Quốc và Ấn Độ như một biên giới pháp lý nữa, và đưa ra các yêu cầu chủ quyền với Aksai Chin, Sikkim và nhiều phần của Assam(hiện là Arunachal Pradesh). Những trách nhiệm và lên án trách nhiệm vi phạm biên giới và tình trạng thù địch diễn ra. Ngày [[9 tháng 9]], vài ngày trước chuyến đi tới Hoa Kỳ, Janos Kadar của Hungary đã tìm cách hoà giải những tranh cãi giữa Trung Quốc và Ấn Độ, với hy vọng có được những quan hệ thân thiện với cả hai bên. Khruschev và [[Alexander Dubček]] của Tiệp Khắc cũng lên tiếng yêu cầu Trung Quốc và Ấn Độ. Tuy nhiên, phản ứng của Trung Quốc với những lời kêu gọi của Liên
Tới khi sự tranh cãi biên giới Trung-Ấn phát triển lên thành một cuộc chiến ở cấp độ lớn nhất trong cuộc [[Chiến tranh Trung-Ấn]] năm 1962, liên minh giữa hai cường quốc cộng sản hàng đầu cũng tan vỡ. Dù các quốc gia thuộc Khối hiệp ước Warsaw ủng hộ đề xuất hoà bình tháng 10 năm 1962 của Trung Quốc, hối thúc Nehru chấp nhận nó, việc Albania và Romania đề nghị cung cấp các máy bay chiến đấu [[Mikoyan|MiG]] cho Ấn Độ đã khiến các quan hệ Trung Quốc-Albania và Trung Quốc-Romania trở nên khủng hoảng. Điều này cũng khiến Trung Quốc quay sang chống lại các quốc gia cộng sản châu Âu khác. Tới cuối năm 1963, Khối Đông Âu và Trung Quốc đã lao vào những cuộc [[tranh cãi]] chống lại nhau, mở ra một giai đoạn thù địch công khai giữa các đồng minh cũ và kéo dài trong suốt thời kỳ còn lại của cuộc Chiến tranh Lạnh.
Dòng 258:
Trong giai đoạn này, các chủ đề Chiến tranh Lạnh lần đầu tiên đi vào xu thế chủ đạo của văn hoá như một mối lo lắng của mọi người. Bộ phim năm 1959 ''[[On the Beach (phim 1959)|On the Beach]]'', là một ví dụ, nó thể hiện một cái chết từ từ, của một thế giới hậu khải huyền còn lại sau một cuộc chiến tranh hạt nhân của Thế chiến III.
[[James Bond]] lần đầu tiên xuất hiện trong một bộ phim năm 1954; những bộ phim James Bond được thực hiện không liên quan chặt chẽ với Chiến tranh Lạnh, nhưng những người hâm mộ yêu mến những phụ nữ đẹp, những địa điểm đẹp đẽ, những vũ khí tinh xảo, và những hành động xem thường cái chết, và có lẽ ít chú ý hơn tới chính trị. Những bộ phim về Bond thích ứng với không khí chính trị khi thể hiện những người Liên
NHững tiểu thuyết trinh thám của [[Frederick Forsyth]] đã được bán hàng trăm nghìn bản. ''The Fourth Protocol'', tên của nó phản ánh một loạt các thoả thuận ngầm, nếu bị phá vỡ, sẽ dẫn tới chiến tranh hạt nhân và tất cả đều đã bị phá vỡ ngoại trừ thoả thuận tứ tư và duy nhất còn lại, đã được chuyển thể thành một bộ phim với diễn viên ngôi sao [[Michael Caine]]. Tâm điểm của những bộ phim kiểu tiểu thuyết như thế là các bộ phim Mỹ của thập niên 1950, như ''[[My Son John]]'', ''[[Kiss Me Deadly]]'', và ''[[The Manchurian Candidate]]'' —là để phỉ báng "kẻ thù bên trong," các nhà hoạt động trong phong trào hoà bình phản bội, và những cử tri đơn giản của Công Đảng những người, vào năm 1988, đã tuần hành chống Chiến tranh Lạnh.
|