Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Chiến tranh Lạnh (1953–1962)”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Cheers!-bot (thảo luận | đóng góp)
n replaced: {{bài chính| → {{chính| (7) using AWB
n viết hoa, replaced: Liên xô → Liên Xô (80)
Dòng 2:
[[Tập tin:Cold War Map 1959.svg|phải|nhỏ|550px|Bản đồ Thế giới năm 1962 với các phe liên kết]]
{{Lịch sử Chiến tranh Lạnh}}
Bài '''Chiến tranh Lạnh (1953–1962)''' nói về một giai đoạn trong cuộc [[Chiến tranh Lạnh]] từ khi lãnh tụ [[Liên Xô|Liên xô]] [[Iosif Vissarionovich Stalin|Joseph Stalin]] qua đời năm 1953 tới cuộc [[Khủng hoảng tên lửa Cuba]] năm 1962. Sau khi Stalin qua đời tình trạng bất ổn xảy ra trong [[Đông Âu|Khối Đông Âu]], trong khi có sự yên tĩnh trong các quan hệ quốc tế, bằng chứng của điều này có thể thấy trong việc ký kết Hiệp ước Nhà nước Áo thống nhất [[Áo]], và [[Hiệp định Genève, 1954|Hiệp ước Geneva]] chấm dứt chiến tranh ở [[Bán đảo Đông Dương|Đông Dương]]. Tuy nhiên, sự"tan băng" này chỉ là một phần với một cuộc [[chạy đua vũ trang]] trên diện rộng tiếp tục diễn ra trong suốt thời kỳ.
 
==Eisenhower và Khrushchev==
<!-- Commented out: [[Hình:NikitaKhrushchev.jpg|nhỏ|phải|250px|Stalin mất đầu tháng 3 năm 1953. Nikita Khrushchev, phía trên, nổi lên trở thành nhà lãnh đạo Liên .|{{ifdc|1=Image:NikitaKhrushchev.jpg|log=2008 November 3}}]] -->
Khi [[Dwight D. Eisenhower]] tuyên thệ nhậm chức [[Tổng thống Hoa Kỳ]] năm 1953, [[Đảng Dân chủ (Hoa Kỳ)|Đảng Dân chủ]] đã mất quyền kiểm soát chức vụ này sau hai mươi năm. Tuy nhiên, dưới thời Eisenhower, chính sách thời Chiến tranh Lạnh của Mỹ vẫn hầu như không thay đổi. Tuy việc xem xét lại toàn diện chính sách đối ngoại đã được đưa ra (được gọi là "Chiến dịch Nhà tắm nắng"), đa số những ý tưởng nổi lên (như "hạ cấp của Chủ nghĩa Cộng sản" và việc giải phóng [[Đông Âu]]) nhanh chóng bị coi là không có khả năng thực hiện. Một sự tập trung bên dưới trên [[chính sách ngăn chặn]] chủ nghĩa cộng sản Liên tiếp tục là cách tiếp cận chủ yếu của chính sách đối ngoại Mỹ.
 
Một phần quan trọng của chính trị Mỹ trong giai đoạn này là [[Chủ nghĩa McCarthy]]. Được đặt theo tên Thượng nghị sĩ bang [[Wisconsin]] Joseph McCarthy, đây là một giai đoạn [[chống chủ nghĩa cộng sản]] mạnh kéo dài từ năm 1948 tới khoảng năm 1956. Chính phủ Hoa Kỳ đã truy tố lãnh đạo của [[Đảng Cộng sản Hoa Kỳ|Đảng Cộng sản Mỹ]] cũng như các cá nhân khác bị nghi ngờ là cộng sản. Sự nghiệp của McCarthy đi xuống năm 1954 khi những buổi điều trần của ông lần đầu tiên được truyền trên TV, cho phép công chúng và báo chí thấy được các chiến lược của ông.
 
Trong khi việc chuyển tiếp chức vụ tổng thống từ [[Harry S. Truman|Truman]] sang Eisenhower vốn là một nhân vật bảo thủ ôn hoà, sự thay đổi tại Liên bang Xô viết rất rộng lớn. Với cái chết của Joseph Stalin (người đã lãnh đạo Liên từ năm 1928 và trong suốt cuộc [[Chiến tranh Xô-Đức|Chiến tranh giữ nước vĩ đại]]) năm 1953, nhân vật cánh tay phải cũ của ông [[Nikita Sergeyevich Khrushchyov|Nikita Khrushchev]] lên giữ chức [[Tổng bí thư Đảng Cộng sản Liên |Thư ký thứ nhất Đảng Cộng sản]].
 
Trong một giai đoạn lãnh đạo tập thể nối tiếp sau đó, Khrushchev dần củng cố quyền lực. Trong một [[Phát biểu bí mật|bài phát biểu bí mật]][http://www.fordham.edu/halsall/mod/1956khrushchev-secret1.html] trong phiên họp kín của [[Đại hội Đảng Cộng sản Liên |Đại hội lần thứ 20]] [[Đảng Cộng sản Liên Xô|Đảng Cộng sản Liên xô]], ngày [[25 tháng 2]] năm [[1956]], Nikita Khrushchev đã làm cử toạ sốc khi lên án sự [[sùng bái cá nhân]] với Stalin và nhiều tội ác khác đã diễn ra trong thời lãnh đạo của ông. Dù những nội dung của bài phát biểu là bí mật, nó đã bị tiết lộ ra bên ngoài, vì thế gây sốc cả cho các đồng minh của Liên cũng như các nhà quan sát phương Tây. Khrushchev sau này trở thành [[thủ tướng Liên ]] năm 1958.
 
Sự tác động trên chính trị Xô viết rất to lớn. Bài phát biểu đã gạt bỏ các đối thủ theo chủ nghĩa Stalin cuối cùng của Khrushchev, khiến họ mất đi tính pháp lý chỉ trong một hành động duy nhất, tăng cường vai trò của Thư ký thứ nhất bên trong nước. Sau đó Khrushchev đã có thể nới lỏng các hạn chế, trả tự do một số người bất đồng và đưa ra các chính sách kinh tế nhấn mạnh trên hàng hoá thương mại chứ không phải trên việc sản xuất [[than (định hướng)|than]] và [[thép]].
Dòng 18:
==Chiến lược của Hoa Kỳ - "Trả đũa hàng loạt" và "bên miệng hố chiến tranh"==
===Các chủ đề xung đột===
Khi Eisenhower nhậm chức năm 1953, ông cam kết với hai mục tiêu trái ngược nhau: duy trì &mdash; hay thậm chí tăng cường &mdash; cam kết quốc gia đẩy lui sự mở rộng ảnh hưởng của Liên , và làm hài lòng những yêu cầu đòi cân bằng ngân sách, hạ thuế, và cắt giảm [[lạm phát]]. Các học thuyết có ảnh hưởng nhất xuất phát từ mục tiêu này là "trả đũa hàng loạt," được Ngoại trưởng [[John Foster Dulles]] thông báo đầu năm 1954. Tránh các chi phí đắt đỏ cho các lực lượng quy ước, mặt đất như ở thời Truman, sử dụng ưu thế kho [[vũ khí hạt nhân]] to lớn của Mỹ và chiến thuật tình báo, Dulles định nghĩa cách tiếp cận này là "[[trên miệng hố chiến tranh]]" trong một cuộc phỏng vấn ngày [[16 tháng 1]] năm [[1956]], trên tờ ''Life'': đẩy Liên tới miệng hố chiến tranh nhằm có được những nhượng bộ.
 
Eisenhower được thừa hưởng từ chính quyền Truman một ngân sách quốc phòng khoảng US$42 tỷ, cũng như một bản thảo (NSC-141) của Acheson, Harriman, và Lovett kêu gọi tăng thêm $7–9 tỷ ngân sách quốc phòng.<ref>Hoopes, p. 193</ref> Với Bộ trưởng tài chính [[George Humphrey]] dẫn đường, và được tăng cường thêm sức ép từ [[Thượng viện Hoa Kỳ|Thượng nghị sĩ]] [[Robert Taft]] và mong muốn cắt giảm chi phí của Hạ viện [[Đảng Cộng hoà Mỹ|do các nghị sĩ Cộng hoà chiếm đa số]], mục tiêu cho năm tài chính mới (có hiệu lực từ ngày [[1 tháng 7]] năm [[1954]]) là giảm xuống còn $36 tỷ. Tuy việc ngừng chiến ở Triều Tiên là cơ hội để giảm đáng kể việc triển khai binh lính và chi phí, Bộ quốc phòng vẫn ở trong trạng thái mong đợi được tăng thêm ngân sách. Humphrey muốn có một ngân sách cân bằng và cắt giảm thuế vào tháng 2 năm 1955, và có mục tiêu cắt giảm $12 tỷ (một nửa số này từ cắt giảm chi phí quân sự).
Dòng 34:
Chính quyền đã nỗ lực hoà giải các áp lực xung đột giữa nhóm "Asia firsters" và những nỗ lực đòi cắt giảm chi tiêu liên bang trong khi tiếp tục chiến đấu có hiệu quả trong cuộc Chiến tranh Lạnh. Ngày [[8 tháng 5]] năm [[1953]], Tổng thống và các cố vấn hàng đầu của mình đã giải quyết vấn đề này trong "Chiến dịch Nhà tắm nắng", được đặt tên theo phòng tắm nắng ở [[Nhà Trắng]] nơi tổng thống tiến hành các cuộc thảo luận bí mật. Dù nó không phải là một truyền thống khi yêu cầu các quan chức quân sự xem xét các yếu tố bên ngoài lĩnh vực nghề nghiệp của họ, Tổng thống đã chỉ thị cho nhóm thực hiện một sự cân bằng tốt đẹp giữa các mục tiêu của ông là cắt giảm chi tiêu chính phủ và một tình thế quân sự lý tưởng.
 
Nhóm đã cân nhắc ba khả năng chính sách cho ngân sách quân sự năm tiếp theo: các tiếp cận của Truman-Acheson về chính sách ngăn chặn và dựa vào các lực lượng quy ước; sự đe doạ trả đũa với sự "gây hấn" giới hạn của Liên ở một địa điểm bằng các loại vũ khí hạt nhân; và sự "giải phóng" nghiêm túc dựa trên một sự trả đũa kinh tế với thách thức quân sự-chính trị-tư tưởng Liên với quyền bá chủ phương Tây: các chiến dịch [[tuyên truyền]] và [[chiến tranh tâm lý]]. Khả năng thứ ba bị phản đối mạnh mẽ.
Eisenhower và nhóm (gồm [[Allen Dulles]], [[Walter Bedell Smith]], [[Charles Douglas Jackson|C.D. Jackson]], và [[Robert Cutler]]) thay vào đó lựa chọn một sự phối hợp giữa hai khả năng đầu tiên, một đảm bảo sự tiếp nối của chính sách ngăn chặn, nhưng dựa vào khả năng răn đe hạt nhân không quân của Mỹ. Đây được coi là sự tránh né khỏi những cuộc chiến tranh mặt đất có chi phí cao và không được lòng dân, như Triều Tiên.
 
Chính quyền Eisenhower coi bom hạt nhân là một phần không thể thiếu của chính sách quốc phòng Mỹ, hy vọng rằng chúng sẽ chống đỡ cho các khả năng của Mỹ trong cuộc đối đầu với Liên . Chính quyền cũng bảo lưu những khả năng sử dụng chúng, trên thực tế, như một vũ khí được viện dẫn hàng đầu, hy vọng giành được thế chủ động trong khi vẫn cắt giảm được chi phí. Bằng cách duy trì ưu thế hạt nhân quốc gia, cách tiếp cận mới của Eisenhower-Dulles là một hình thức rẻ hơn của chính sách ngăn chặn theo hướng trao cho người Mỹ "more bang for the buck."
 
Vì thế, chính quyền tăng số lượng đầu đạn hạt nhân từ 1,000 năm 1953 lên 18.000 đầu năm 1961. Dù có ưu thế tuyệt đối của Mỹ, một vũ khí hạt nhân được sản xuất ra thêm mỗi ngày. Chính quyền cũng tận dụng kỹ thuật mới. Năm 1955 chiếc máy bay ném bom 8 động cơ [[Boeing B-52 Stratofortress|B-52 Stratofortress]], chiếc máy bay phản lực ném bom đầu tiên được thiết kế để mang vũ khí hạt nhân, được phát triển.
 
Năm 1962, Hoa Kỳ có số bom và đầu đạn hạt nhân lớn gấp tám lần Liên : 27.297 so với 3,332.
<ref>{{chú thích
|url=http://www.nrdc.org/nuclear/nudb/datainx.asp
Dòng 51:
Trong cuộc [[Khủng hoảng tên lửa Cuba]] Hoa Kỳ có 142 Atlas và 62 [[Titan I]] [[Tên lửa liên lục địa|ICBM]], chủ yếu trong các silo được bảo vệ ngầm dưới đất.<ref name="Races">{{cite video|title=Weapons Races: Nuclear Bomb|people=Executive Producer: Philip Nugus|publisher=Military Channel & Nugus/Martin Productions LTD.|year=2006|medium=television}}</ref>
 
Năm 1961, Hoa Kỳ triển khai 15 [[Jupiter (tên lửa)|Jupiter IRBM]] (tên lửa đạn đạo tầm trung) tại [[İzmir]], [[Thổ Nhĩ Kỳ]], ngắm vào các thành phố phía tây Liên , gồm cả [[Moskva]]. Với tầm bắn 2410&nbsp;km, nó chỉ mất 16 phút để bay tới Moscow. Hoa Kỳ cũng có thể phóng các [[tên lửa đạn đạo phóng từ tàu ngầm]] [[UGM-27 Polaris|Polaris]] có tầm bắn 1600&nbsp;km từ các tàu ngầm<ref name="Races"/>.
 
==Chiến lược của Liên ==
Năm 1960 và 1961, Khrushchev đã tìm cách áp đặt ý tưởng răn đe hạt nhân trong quân sự. Học thuyết răn đe hạt nhân cho rằng lý do để sở hữu các loại vũ khí hạt nhân là để ngăn chặn một kẻ thù tiềm năng sử dụng nó. Với mỗi bên đều bị răn đe để không xảy ra chiến tranh bởi mối đe doạ nó sẽ leo thang thành một cuộc xung đột hạt nhân, Khrushchev tin rằng, sự "cùng tồn tại hoà bình" với chủ nghĩa tư bản sẽ trở thành hiện thực và cho phép ưu thế cố hữu của chủ nghĩa xã hội xuất hiện trong cuộc cạnh tranh kinh tế và văn hoá với phương Tây.
 
Khrushchev hy vọng rằng việc dựa tuyệt đối vào vũ khí hạt nhân của [[Lực lượng Tên lửa Chiến lược]] mới được hình thành sẽ loại bỏ nhu cầu tăng các chi phí quốc phòng. Ông cũng tìm các sử dụng răn đe hạt nhân để làm lý do cho việc cắt giảm binh lính trên diện rộng của mình; ông hạ thấp các lực lượng mặt đất, theo truyền thống là "lực lượng chiến đấu" của các lực lượng vũ trang Liên ; và có các kế hoạch thay thế những máy bay ném bom bằng tên lửa và hạm đội mặt đất với các tàu ngầm mang tên lửa hạt nhân. [http://lcweb2.loc.gov/cgi-bin/query/r?frd/cstdy:@field(DOCID+su0430)]
 
Tuy nhiên, trong cuộc [[Khủng hoảng tên lửa Cuba]] Liên bang Xô viết chỉ có bốn [[Tên lửa R-7|R-7 Semyorka]] và một ít tên lửa liên lục địa [[R-16]] được triển khai tên những bệ phóng dễ bị phá huỷ trên mặt đất.<ref name="Races"/> Năm 1962 [[tàu ngầm Đề án 658|hạm đội tàu ngầm Liên ]] chỉ có 8 chiếc mang [[R-13 (tên lửa)|tên lửa tầm ngắn]] chỉ có thể được phóng từ tàu ngầm nổi trên mặt nước và vì thế đánh mất ưu thế ẩn nấp của chúng.
 
Nỗ lực của Khrushchev nhằm đưa ra một học thuyết hạt nhân răn đe giới hạn vào trong quân đội Liên bị cho là sai lầm. Việc thảo luận về chiến tranh hạt nhân lần đầu tiên được nghiên cứu chính thức như một chiến lược có từ thập niên 1920, Nguyên soái [[Vasily Danilovich Sokolovsky|Vasilii Sokolovskii's]] "Chiến lược Quân sự" (xuất bản năm 1962, 1963, và 1968) và trong ấn bản năm 1968 của "Chủ nghĩa Mác-Lenin về Chiến tranh và Quân đội", tập trung trên việc sử dụng vũ khí hạt nhân để chiến đấu hơn là để răn đe một cuộc chiến tranh. Nếu một cuộc chiến như vậy nổ ra, cả hai phía sẽ theo đuổi những mục tiêu quyết định với các phương tiện và biện pháp mạnh nhất. Các tên lửa liên lục địa và máy bay sẽ tung ra nhiều cuộc tấn công vào các mục tiêu quân đội và dân sự của đối phương. Cuộc chiến sẽ diễn ra trên một bình diện địa lý lớn chưa từng thấy, nhưng các tác gia quân sự Liên cho rằng việc sử dụng vũ khí hạt nhân trong giai đoạn đầu của cuộc chiến sẽ quyết định quá trình và kết quả của toàn thể cuộc chiến. Cả trong học thuyết và trong chiến lược, vũ khí hạt nhân đều có vị trí tối cao. [http://lcweb2.loc.gov/cgi-bin/query/r?frd/cstdy:@field(DOCID+su0430)]
 
==Sự phá huỷ được đảm bảo từ cả hai bên==
Một phần quan trọng của sự phát triển ổn định dựa trên ý tưởng [[Sự phá huỷ được đảm bảo từ cả hai bên]] (MAD). Tuy người Liên đã có các vũ khí hạt nhân vào năm 1949, họ vẫn mất nhiều năm để có thể phát triển ngang bằng với Hoa Kỳ. Trong lúc đó, người Mỹ đã phát triển [[bom hydro]], và người Liên bắt kịp trong thời gian cầm quyền của Khrushchev. Các phương tiện mang vũ khí hạt nhân mới như [[tàu ngầm]] và [[Tên lửa liên lục địa|ICBM]] có nghĩa cả hai siêu cường có thể dễ dàng tàn phá lẫn nhau, có lẽ thậm chí sau một [[cuộc tấn công đầu tiên]] của phía bên kia.
 
Thực tế này thường khiến các nhà lãnh đạo ở cả hai phía rất lưỡng lự khi tạo ra nguy cơ, sợ rằng một sự bùng phát nhỏ có thể dẫn tới một cuộc chiến tranh có thể quét sạch toàn bộ nền văn minh nhân loại. Tuy thế, lãnh đạo của cả hai nước tiếp tục nhấn mạnh trên quân sự và các kế hoạch tình báo để biết được tình hình của phe đối địch. Cùng lúc ấy, những cách thức khác cũng được viện tới để quảng bá lý tưởng của mình; chúng bắt đầu gồm cả [[thể thao]] (với các kỳ [[Thế vận hội|Olympic]] trở thành một chiến trường giữa các lý tưởng cũng như giữa các vận động viên) và văn hoá (với việc các nước cổ vũ cho các [[nghệ sĩ pianio]], [[cờ vua|kỳ thủ]], và các [[đạo diễn]] phim).
 
Một trong những hình thức quan trọng nhất của cuộc cạnh tranh phi bạo lực là [[chạy đua vào không gian|chạy đua không gian]]. Người Liên dẫn trước năm 1957 với việc phóng tàu [[Sputnik]], [[vệ tinh|vệ tinh nhân tạo]] đầu tiên, tiếp đó là chuyến bay có người điều khiển. Thành công của [[chương trình vũ trụ Liên ]] là một cú sốc lớn với Hoa Kỳ, vốn vẫn tin rằng mình đang vượt trội về kỹ thuật. Khả năng phóng các vật thể vào quỹ đạo là đặc biệt đáng ngại bởi nó có nghĩa các tên lửa Liên có thể với tới bất kỳ đâu trên hành tinh.
Ngay sau đó, người Mỹ đã có một chương trình vũ trụ của riêng họ nhưng vẫn ở phía sau Liên cho tới giữa thập niên 1960. Tổng thống Hoa Kỳ [[John F. Kennedy]] đã tung ra một nỗ lực chưa từng có, hứa hẹn rằng tới cuối thập niên 1960 người Mỹ sẽ đổ bộ xuống Mặt Trăng, và họ đã làm được, nhờ thế đánh bại người Liên trong một trong những mục tiêu quan trọng nhất của cuộc chạy đua vũ trụ.
 
Một chiến trường cạnh tranh khác của cuộc chiến tranh không thuốc súng là có được mạng lưới tình báo toàn cầu. Đã có một loạt những scandal gián điệp gây sốc ở phương Tây, đáng chú ý nhất là vụ việc liên quan tới [[Cambridge Five]]. Người LIênLiên có nhiều nhân vật đào tẩu cao cấp ở phương Tây, như [[Vụ Petrov]]. Khoản tiền cung cấp cho [[KGB]], [[Cơ quan Tình báo Trung ương (Hoa Kỳ)|CIA]] và các tổ chức nhỏ hơn khác như [[Cục tình báo mật|MI6]] và [[Stasi]] tăng nhanh chóng khi các điệp viên và ảnh hưởng của chúng lan ra khắp thế giới.
 
Năm 1957 CIA bắt đầu chương trình các chuyến bay do thám trên lãnh thổ Liên bằng các máy bay [[Lockheed U-2]]. Khi một chiếc máy bay đó bị bắn rơi trên lãnh thổ Liên ngày 1 tháng 5 năm 1960 ([[Vụ việc U-2 năm 1960]]) ban đầu chính phủ Hoa Kỳ bác bỏ mục đích của chiếc máy bay đó là do thám, nhưng đã buộc phải thừa nhận vai trò của nó là một máy bay [[trinh sát]] khi chính phủ Liên tiết lộ rằng họ đã bắt giữ viên phi công, [[Gary Powers]], còn sống và đang sỡ hữu những nhiều phần còn nguyên vẹn của chiếc máy bay. Xảy ra chỉ hai tuần trước một cuộc họp [[Thượng đỉnh Paris năm 1960|Thượng đỉnh Đông-Tây tại Paris]], vụ việc đã dẫn tới sự sụp đổ các cuộc đàm phán và đánh dấu một giai đoạn đi xuống trong quan hệ quốc tế.
 
==Các sự kiện Khối Đông Âu==
Dòng 80:
===Khởi nghĩa Đông Đức năm 1953===
{{chính|Khởi nghĩa Đông Đức năm 1953}}
Sau khi một lượng lớn người Đông Đức đi sang phía Tây qua "lỗ châu mai" duy nhất còn lại trong [[Di cư và đào tẩu từ Khối Đông Âu|những hạn chế di cư của Khối Đông Âu]], đoạn biên giới Berlin,<ref name="crampton278">{{Harvnb|Crampton|1997|p=278}}</ref> chính phủ Đông Đức sau đó đặt ra "các tiêu chuẩn" – sản lượng mà mỗi công nhân phải đạt được—là 10%.<ref name="crampton278"/> Những người Đông Đức vốn đã bất mãn trước những thành công kinh tế của Tây Đức bên trong Berlin, bắt đầu đứng lên<ref name="crampton278"/>, tổ chức những cuộc tuần hành đường phố và bãi công lớn.<ref name="crampton279">{{Harvnb|Crampton|1997|p=279}}</ref> Một tình trạng khẩn cấp trên diện rộng được tuyên bố và [[Hồng Quân|Hồng quân]] Liên tiến hành can thiệp.<ref name="crampton279"/>
 
===Thành lập Khối hiệp ước Warsaw===
{{chính|Khối hiệp ước Warsaw}}
Năm 1955, [[Khối Warszawa|Khối hiệp ước Warsaw]] được thành lập để đối đầu với [[NATO]], đã gồm cả [[Tây Đức]], và một phần bởi người Liên cần có một lời giải thích cho việc các đơn vị [[Hồng Quân|Hồng quân]] tiếp tục ở lại [[Cộng hoà Nhân dân Hungary|Hungary]].<ref name="crampton240">{{Harvnb|Crampton|1997|p=240}}</ref> Trong 35 năm, Khối này đã duy trì ý tưởng an ninh quốc gia của Stalin dựa trên sự mở rộng kiểu đế quốc và kiểm soát các chế độ vệ tinh ở Đông Âu.<ref name="michta31">{{Harvnb|Michta|Mastny|1992|p=31}}</ref> Thông qua những cấu trúc kiểu định chế của nó, Khối hiệp ước cũng một phần đền bù cho sự vắng mặt sự lãnh đạo cá nhân của Stalin, vốn đã được thể hiện từ khi ông chết năm 1953.<ref name="michta31"/> Tuy châu Âu tiếp tục là mối lo ngại chủ chốt của cả hai phía trong suốt cuộc Chiến tranh Lạnh, tới cuối thập niên 1950, tình hình đã trở nên đóng băng. Các cam kết liên minh và các trung tâm quân sự trong vùng có nghĩa là bất kỳ một vụ việc nào đều có khả năng dẫn tới một cuộc chiến tranh trên diện rộng, và cả hai phía vì thế đều phải nỗ lực duy trì tình trạng hiện có. Cả Khối hiệp ước Warsaw và NATO đều duy trì những lực lượng quân sự lớn và các loại vũ khí hiện đại để có khả năng đánh bại liên minh quân sự kia.
 
===Những cuộc phản kháng tại Ba Lan năm 1956===
Dòng 91:
===Cách mạng Hungary năm 1956===
{{chính|Cách mạng Hungary năm 1956}}
Sau khi nhà độc tài kiểu Stalin Mátyás Rákosi bị thay thế bởi [[Imre Nagy]] sau cái chết của Stalin<ref>{{cite paper | author=János M. Rainer | title = Stalin and Rákosi, Stalin and Hungary, 1949–1953 | date = Paper presented on 4 tháng 10 năm 1997 at the workshop "European Archival Evidence. Stalin and the Cold War in Europe", Budapest, 1956 Institute | url =http://www.rev.hu/index_en.html | accessdate = 2006-10-08 }}</ref> và nhà cải cách người [[Cộng hoà Nhân dân Ba Lan|Ba Lan]] [[Władysław Gomułka]] thực hiện một số yêu cầu cải cách<ref name = satellite>{{chú thích web | title = Notes from the Minutes of the CPSU CC Presidium Meeting with Satellite Leaders, 24 tháng 10 năm 1956 | work = The 1956 Hungarian Revolution, A History in Documents | publisher = George Washington University: The National Security Archive | date = 4 tháng 11 năm 2002 | url = http://www.gwu.edu/~nsarchiv/NSAEBB/NSAEBB76/doc5.pdf | format = PDF | accessdate = 2006-09-02}}</ref>, một lượng lớn người biểu tình Hungary đưa ra một danh sách [[Các yêu cầu của Cách mạng Hungary năm 1956]]<ref name=sixteen>Internet Modern History Sourcebook: Resolution by students of the Building Industry Technological University: [http://www.fordham.edu/halsall/mod/1956hungary-16points.html Sixteen Political, Economic, and Ideological Points, Budapest, 22 tháng 10 năm 1956] Truy cập 22 tháng 10 năm 2006</ref>, gồm cả việc bầu cử tự do, các hội đồng độc lập và điều tra các hành động của Stalin và Rákosi tại Hungary. Theo lệnh của Bộ trưởng quốc phòng Liên [[Georgi Konstantinovich Zhukov|Georgy Zhukov]], xe tăng Liên tiến vào Budapest.<ref>UN General Assembly ''Special Committee on the Problem of Hungary'' (1957) {{PDF|[http://mek.oszk.hu/01200/01274/01274.pdf Chapter II.C, para 58 (p. 20)]|1.47&nbsp;[[Mebibyte|MiB]]<!-- application/pdf, 1548737 bytes -->}}</ref> Những người biểu tình tấn công Toà nhà nghị viện và buộc chính phủ phải sụp đổ.<ref>UN General Assembly ''Special Committee on the Problem of Hungary'' (1957) {{PDF|[http://mek.oszk.hu/01200/01274/01274.pdf Chapter II.F, para 65 (p. 22)]|1.47&nbsp;[[Mebibyte|MiB]]<!-- application/pdf, 1548737 bytes -->}}</ref>
 
Chính phủ mới lên nắm quyền lực trong cuộc cách mạng chính thức giải tán [[ÁVH|cảnh sát mật Hungary]], tuyên bố ý định rút khỏi [[Khối Warszawa|Khối hiệp ước Warsaw]] và cam kết tái lập bầu cử tự do. [[Bộ chính trị Uỷ ban Trung ương Đảng Cộng sản Liên |Bộ chính trị Liên ]] sau đó chuyển sang lập trường đàn áp cuộc cách mạng với một lực lượng lớn của Liên tiến vào Budapest và các vùng khác của nước này.<ref name=troops>UN General Assembly ''Special Committee on the Problem of Hungary'' (1957) {{PDF|[http://mek.oszk.hu/01200/01274/01274.pdf Chapter IV. E (Logistical deployment of new Soviet troops), para 181 (p. 56)]|1.47&nbsp;[[Mebibyte|MiB]]<!-- application/pdf, 1548737 bytes -->}}</ref> Approximately 200.000 Hungarians fled Hungary,<ref name="Cseresneyes">{{chú thích tạp chí| last = Cseresnyés| first = Ferenc | title = The '56 Exodus to Austria| journal = The Hungarian Quarterly| volume = XL| issue = 154 | pages = 86–101| publisher = Society of the Hungarian Quarterly | url = http://www.hungarianquarterly.com/no154/086.html | date = Summer 1999 | accessdate = 2006-10-09 }}</ref> khoảng 26.000 người Hungary bị chính phủ [[Kádár János|János Kádár]] do Liên lập lên đem ra xét xử, và trong số đó 13.000 người bị bỏ tù.<ref>{{cite conference | first = Adrienne | last = Molnár | authorlink = | coauthors = Kõrösi Zsuzsanna, | title = The handing down of experiences in families of the politically condemned in Communist Hungary | booktitle = IX. International Oral History Conference | pages = 1169-1166 | publisher = | year = 1996 | location = Gotegorg | url = http://www.rev.hu/portal/page/portal/rev/tanulmanyok/kadarrendszer/kzsma1 | accessdate = 2008-10-10 }}</ref> Imre Nagy bị hành quyết cùng với [[Pál Maléter]] và Miklós Gimes, sau những phiên toà bí mật tháng 6 năm 1958. Tới tháng 1 năm 1957, chính phủ Hungary đã đàn áp mọi sự đối lập công cộng. Những hành động đàn áp bạo lực đó của chính phủ Hungary đã khiến nhiều người theo [[Chủ nghĩa Marx|Chủ nghĩa Mác]] ở phương Tây trở nên xa lánh, tuy vậy đã tăng cường quyền kiểm soát cộng sản ở mọi quốc gia cộng sản châu Âu, tạo ra nhận thức rằng chủ nghĩa cộng sản vừa không thể đảo ngược vừa vững chắc.
 
===Khủng hoảng Berlin năm 1961===
{{chính|Khủng hoảng Berlin năm 1961}}
 
[[Tập tin:Checkpoint Charlie 1961-10-27.jpg|nhỏ|300px|Xe tăng [[Liên Xô|Liên xô]] đối mặt với xe tăng [[Hoa Kỳ]] tại Chốt gác Charlie, 27 tháng 10 năm 1961]]
 
Địa điểm có tầm quan trọng hàng đầu vẫn là [[Đức]] sau khi [[Khối Đồng Minh thời Chiến tranh thế giới thứ hai|Đồng Minh]] sáp nhập các vùng chiếm đóng của họ để hình thành nên [[Đức|Cộng hoà Liên bang Đức]] năm 1949. Để trả đũa, Liên tuyên bố vùng chiếm đóng của mình trở thành [[Cộng hòa Dân chủ Đức|Cộng hoà Dân chủ Đức]], một quốc gia độc lập. Tuy nhiên không bên nào thừa nhận sự phân chia và ngoài mặt cả hai phía vẫn duy trì một cam kết về một nước Đức thống nhất với các chính phủ của họ.
 
Đức là một vấn đề quan trọng bởi nó được coi là trung tâm quyền lực của lục địa, và cả hai bên tin rằng nó cũng là yếu tố then chốt cho sự cân bằng quyền lực thế giới. Tuy cả hai phía đều muốn một nước Đức thống nhất trung lập, những nguy cơ nó rơi vào tay phe đối thủ với cả hai phía là rất lớn, và vì thế các vùng chiếm đóng tạm thời thời hận chiến đã trở thành các biên giới cố định.
 
Tháng 11 năm 1958, Thủ tướng Liên Khrushchev ra một tối hậu thư trao cho các cường quốc phương Tây sáu tháng để đồng ý rút khỏi [[Berlin]] để biến nó trở thành một thành phố tự do, phi quân sự. Cuối thời hạn này, Khrushchev tuyên bố, Liên sẽ chuyển cho Đông Đức quyền kiểm soát toàn bộ các đường dây viễn thông với Tây Berlin; các cường quốc phương Tây sau đó sẽ chỉ được tiếp cận với Tây Berlin dưới sự cho phép của chính phủ Đông Đức. Hoa Kỳ, Anh Quốc và Pháp trả lời tối hậu thư này bằng cách tuyên bố sự kiên quyết hiện diện của họ ở [[Tây Berlin]] và duy trì quyền tiếp cận theo pháp lý của họ với thành phố này.
 
Năm 1959 Liên rút bỏ thời hạn chót của mình và thay vào đó tiến hành gặp gỡ với các cường quốc phương Tây trong một hội nghị các bộ trưởng ngoại giao của Bốn Cường quốc. Dù những cuộc họp kéo dài ba tháng không thể đạt tới bất kỳ thoả thuận quan trọng nào, họ thực sự đã tạo được cơ sở cho những cuộc đàm phán tiếp sau và dẫn tới chuyến thăm Hoa Kỳ của Thủ tướng Khrushchev vào tháng 9 năm 1959. Cuối cuộc viếng thăm, Khrushchev và Tổng thống Eisenhower đã cùng phát biểu rằng vấn đề quan trọng nhất của thế giới là việc cùng giải giáp và vấn đề Berlin và "toàn bộ các vấn đề quốc tế đáng chú ý phải được giải quyết, không phải bằng việc sử dụng vũ lực, mà bằng các biện pháp hoà bình thông qua thương lượng."
 
Tuy nhiên, tháng 6 năm 1961 Thủ tướng Khrushchev đã tạo ra một cuộc khủng hoảng mới về vị thế của Tây Berlin khi ông một lần nữa đe doạ ký một hiệp ước hoà bình riêng rẽ với Đông Đức, mà ông nói, sẽ chấm dứt các thoả thuận bốn cường quốc đảm bảo quyền tiếp cận của Mỹ, Anh và Pháp với Tây Berlin. Ba cường quốc đáp trả rằng không một hiệp ước đơn phương nào có thể thủ tiêu các quyền lợi và trách nhiệm của họ ở Tây Berlin, gồm cả quyền tiếp cận không bị giới hạn với thành phố này.
Dòng 112:
Khi sự đối đầu về vấn đề Berlin leo thang, ngày 25 tháng 7 Tổng thống Kennedy đã yêu cầu tăng cường sức mạnh quân đội từ 875.000 lên xấp xỉ 1 triệu người, cùng với việc gia tăng 29.000 và 63.000 lính trong lực lượng phục vụ thường xuyên của Hải quân và Không quân. Ngoài ra, ông ra lệnh các cuộc điện thoại chiến thuật phải được lưu lại, và yêu cầu Hạ viện trao quyền ra lệnh hoạt động tích cực với một số đơn vị dự trữ và cá nhân dự bị. Ông cũng yêu cầu những khoản vốn mới để xác định và đánh dấu khoảng không trong các cơ cấu sẵn có có thể được sử dụng dùng làm nơi trú ẩn trong trường hợp xảy ra tấn công, lưu trữ tại đó lương thực, nước uống và các bộ cấp cứu y tế cùng các đồ dùng tối cần thiết khác cho cuộc sống, và cải tiến các hệ thống cảnh báo trên không và phát hiện bụi phóng xạ.
 
Trong những tháng đầu năm 1961, chính phủ tích cực tìm kiếm các biện pháp tạm dừng các cuộc di cư của dân chúng tới phương Tây. Tới đầu mùa hè năm 1961, Chủ tịch Đông Đức Walter Ulbricht đã công khai thuyết phục người Liên rằng một giải pháp ngay lập tức là cần thiết và rằng cách thức duy nhất để ngăn chặn cuộc di cư là sử dụng vũ lực. Việc này dẫn tới một vấn đề nhạy cảm cho Liên bởi vị thế Bốn Cường quốc tại Berlin quy định sự tự do đi lại giữa các vùng và đặc biệt cấm sự hiện diện của quân đội Đức tại Berlin.
 
Trong mùa xuân và đầu mùa hè, chế độ Đông Đức chuẩn bị và tích trữ các vật liệu xây dựng để dựng lên [[Bức tường Berlin]]. Dù hành động trên diện rộng này đã được tất cả các bên biết tới, ít người bên ngoài các nhân vật lập kế hoạch của Liên và Đông Đức biết rằng Đông Đức sẽ bị đóng kín.
 
Ngày [[15 tháng 6]] năm [[1961]], hai tháng trước khi việc xây dựng Bức tường Berlin bắt đầu, Thư ký thứ nhất của [[Đảng Thống nhất Xã hội chủ nghĩa Đức|Đảng Thống nhất Xã hội chủ nghĩa]] và chủ tịch [[Staatsrat]] [[Walter Ulbricht]] đã nói trong một cuộc họp báo quốc tế, ''"Niemand hat die Absicht, eine Mauer zu errichten!" (Không ai có ý định dựng lên một bức tường)''. Đây là lần đầu tiên thuật ngữ ''Mauer'' (bức tường) đã được sử dụng trong ngữ cảnh này.
Dòng 124:
Ngày 30 tháng 8 năm 1961, Tổng thống John F. Kennedy đã ra lệnh huy động 148.000 Vệ binh và Quân dự bị để trả đũa các hành động cắt đường tiếp cận Berlin của Đông Đức. Lực lượng không quân được tăng thêm 21.067 người sau lệnh động viên này. Các đơn vị ANG được huy động trong tháng 10 gồm 18 phi đội chiến đấu chiến thuật, 4 phi đội trinh sát chiến thuật, 6 phi đội vận tải đường không, và một nhóm kiểm soát chiến thuật. Ngày 1 tháng 11, Không quân huy động ba phi đội máy bay chiến đấu đánh chặn ANG nữa. Cuối tháng 10 và đầu tháng 11, tám trong số các phi đội máy bay chiến đấu chiến thuật đã được điều sang châu Âu với 216 máy bay của chúng trong chiến dịch "Bước Bậc thang," sự triển khai máy bay phản lực lớn nhất trong lịch sử Không quân. Bởi vì có tầm hoạt động ngắn, 60 máy bay đánh chặn F-104 của Không quân đã được không vận tới châu Âu vào cuối tháng 11. Không quân Hoa Kỳ tại châu Âu (USAFE) không có các phụ tùng cẩn thiết cho những chiếc máy bay F-84 và F-86 đã già cỗi của ANG. Một số đơn vị đã được huấn luyện để mang theo các vũ khí hạt nhân chiến thuật, chứ không phải các loại bom và hàng hoá thông thường. Họ phải được huấn luyện lại cho các phi vụ quy ước một khi đã tới châu Âu. Đa số lính không quân được huy động vẫn ở lại bên trong nước Mỹ. [http://www.globalsecurity.org/military/ops/berlin.htm]
 
Bốn cường quốc chiếm đóng Berlin ([[Pháp]], [[Liên Xô|Liên xô]], [[Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland|Anh Quốc]], và [[Hoa Kỳ]]) đã đồng ý tại [[Hội nghị Potsdam]] năm 1945 rằng các binh sĩ Đồng Minh sẽ không bị chặn lại bởi cảnh sát Đông Đức ở bất kỳ khu vực nào của Berlin. Nhưng vào ngày [[22 tháng 10]] năm [[1961]], chỉ hai tháng sau khi Bức tường được xây dựng, Chỉ huy Phái bộ Mỹ tại Tây Berlin, E. Allan Lightner, đã bị chặn lại trong chiếc xe của mình (xe có biển số của các lực lượng chiếm đóng) trong khi đang tới một nhà hát ở Đông Berlin. Tướng lục quân [[Lucius D. Clay]] (đã nghỉ hưu), Cố vấn Đặc biệt của [[Tổng thống Hoa Kỳ]] [[John F. Kennedy]] tại Tây Berlin, quyết định thể hiện sự kiên quyết của Mỹ.
 
Những nỗ lực của một nhà ngoại giao Mỹ vào Đông Berlin được quân đội Mỹ hỗ trợ. Điều này dẫn tới một sự cảnh giác giữa xe tăng Mỹ và Đông Đức tại [[Chốt gác Charlie]] ngày 27-28 tháng 10 năm 1961. Sự cảnh giác này chỉ được giải quyết sau những cuộc đàm phán trực tiếp giữa Ulbricht và Kennedy.
Dòng 130:
Khủng hoảng Berlin là sự kiện trong đó quân đội Đông Đức và quân đội Mỹ đã đối mặt nhau, cho tới khi chính phủ Đông Đức lùi bước. Vụ khủng hoảng chấm dứt vào mùa hè năm 1962 và binh lính quay trở lại Mỹ. [http://www.globalsecurity.org/military/ops/berlin.htm]
 
Trong cuộc khủng hoảng [[KGB]] đã chuẩn bị kế hoạch phá hoại chi tiết và tung tin giả "nhằm tạo ra một tình thế ở nhiều khu vực của thế giới sẽ dẫn tới sự phân tán sự chú ý và các lực lượng của Hoa Kỳ và đồng minh của họ, và sẽ buộc họ phải lùi bước trong quá trình giải quyết vấn đề hiệp ước hoà bình Đức và Tây Berlin". Ngày 1 tháng 8 năm 1961 kế hoạch này được [[Uỷ ban Trung ương Đảng Cộng sản Liên ]] thông qua. [http://www.videofact.com/english/cia_kgb.html]
 
==Cuba==
Dòng 147:
Hy vọng lặp lại thành công của Guatemala và Iran năm 1961, CIA, viện dẫn cuộc di tản quy mô lớn tới Hoa Kỳ sau khi Castro lên nắm quyền, đã huấn luyện và trang bị một nhóm người Cuba lưu vong đổ bộ xuống [[Vịnh con Lợn]] nơi họ tìm cách tạo ra một cuộc khởi nghĩa chống chế độ Castro. Tuy nhiên, cuộc tấn công đã thất bại nặng nề. Sau đó, Casto công khai tuyên bố ông là một người Marxist-[[Chủ nghĩa Leni|Leninist]] và tạo lập Cuba trở thành [[nhà nước Cộng sản]] đầu tiên tại châu Mỹ và tiếp tục quốc hữu hoá các ngành công nghiệp chính của đất nước.
 
Chính phủ Liên nắm lấy cơ hội từ cuộc xâm lược bất thành như một lý lẽ để đưa quân đội Liên vào Cuba. Họ cũng quyết định đặt các [[MRBM|tên lửa hạt nhân tầm trung]] có thể tấn công đồng thời nhiều vị trí tại Hoa Kỳ ở Cuba.
 
Để trả đũa, Tổng thống John F. Kennedy cách ly hòn đảo, và sau nhiều ngày căng thẳng người Liên quyết định triệt thoái để đổi lại những lời hứa từ Hoa Kỳ không xâm lược Cuba và rút các tên lửa khỏi Thổ Nhĩ Kỳ. Sau cuộc chạm trán chớp nhoáng với [[chiến tranh hạt nhân]] này, hai vị lãnh đạo đã cấm các vụ thử hạt nhân trong không trung và dưới mặt nước sau năm 1962. Người Liên cũng bắt đầu một chiến dịch xây dựng lại quân đội trên diện rộng. Sự rút lui đã làm ảnh hưởng tới vị trí của Khrushchev, và ông nhanh chóng bị loại bỏ sau đó và được thay thế bởi [[Leonid Ilyich Brezhnev|Leonid Brezhnev]].
 
Cuộc cách mạng Cuba dẫn tới sáng kiến của Kennedy về chương trình "[[Liên minh Phát triển]]". Chương trình này có mục tiêu cung cấp khoản vay và trợ giúp hàng tỷ dollar trong thập niên 1960 để phát triển kinh tế nhằm ngăn chặn các mạng [[hệ thống xã hội chủ nghĩa|xã hội chủ nghĩa]]. Liên minh cũng bao gồm các biện pháp chống nổi dậy, như việc thành lập Trường Chiến tranh Rừng rậm tại [[Vùng Kênh Panama]] và việc huấn luyện các lực lượng cảnh sát.
Dòng 165:
Trong một bối cảnh quốc tế như vậy, Liên bang Xô viết đã truyền bá một vai trò như nước lãnh đạo của phe "chống đế quốc", thu hút sự chú ý của Thế giới thứ ba như một đối thủ đáng tin cậy của chủ nghĩa đế quốc chứ không phải nhiều quốc gia đã có độc lập ở châu Phi và châu Á. Khrushchev đã mở rộng chính sách của Moscow bằng cách thiết lập các quan hệ mới với [[Ấn Độ]] và các quốc gia thành viên quan trọng khác của phong trào không liên kết và các nước phi cộng sản khác trong khắp Thế giới thứ ba. Nhiều quốc gia thuộc [[Phong trào không liên kết]] đã phát triển các mối quan hệ thân cận với [[Moskva]].
 
Trong một cuộc diễn tập các chính sách "hạ giá" mới, theo các học thuyết của Dulles, Eisenhower đã cản trở sự can thiệp của Liên , sử dụng CIA để lật đổ các chính phủ thù địch. Trong thế giới Ả Rập, tiêu điểm là phong trào quốc gia liên Ả Rập. Các công ty Mỹ đã đầu tư nhiều vào vùng này, nơi có những giếng dầu lớn nhất thế giới. Hoa Kỳ lo lắng về sự ổn định và tính trung thành của các chính phủ trong vùng, nơi sức khoẻ của nền kinh tế Mỹ đang ngày càng phụ thuộc vào.
 
===Các khối hiệp ước quốc phòng===
Dòng 174:
Tuy nhiên, nhiều quốc gia thế giới thứ ba không muốn gia nhập với bất kỳ cường quốc nào. [[Phong trào không liên kết]], dẫn đầu bởi Ấn Độ, [[Ai Cập]], và [[Áo]], tìm cách thống nhất thế giới thứ ba chống lại cái bị coi là chủ nghĩa đế quốc bởi cả phương Đông và phương Tây.
 
===Ảnh hưởng Liên và Chủ nghĩa quốc gia===
Dulles, cùng với hầu hết các nhà hoạch định chiến lược của Hoa Kỳ thời kỳ này, coi nhiều nhân vật quốc gia và "các mạng" của thế giới thứ ba là chủ yếu nằm dưới tầm ảnh hưởng, nếu không nói là tầm kiểm soát của Khối hiệp ước Warsaw. Trớ trêu thay, trong cuốn ''Chiến tranh, Hoà bình và Thay đổi'' (1939), ông đã gọi [[Mao Trạch Đông]] là một "nhà cải cách nông nghiệp," và trong Thế chiến II ông đã gọi những người theo Mao là "cái gọi là 'phái Hồng quân của Mao'." <ref>Pruessen, p. 441</ref> Nhưng ông không còn được công nhận là có các nguồn ngốc bản xứ nữa trong [[Đảng Cộng sản Trung Quốc]] ở năm 1950. Trong ''Chiến tranh và Hoà bình'', một tác phẩm đầy ảnh hưởng bác bỏ các chính sách ngăn chặn của chính quyền Truman, và tán thành một chương trình "giải phóng" tích cực, ông đã viết:
 
:Vì thế 450.000.000 người ở Trung Quốc đã ngã xuống dưới sự lãnh đạo chống Mỹ cuồng nhiệt, và thực hiện nó dưới sự ảnh hưởng và hướng dẫn từ Moscow... giới lãnh đạo Liên đã giành một thắng lợi ở Trung Quốc vượt quá cả điều [[Nhật Bản]] đang tìm kiếm và chúng ta đã đối đầu với nguy cơ là cả một cuộc chiến để ngăn chặn."<ref>Toulouse, p. 227</ref>
 
Phía sau vũ đài, Dulles có thể giải thích các chính sách của ông theo địa chính trị. Nhưng trước công chúng, ông sử dụng các lý do đạo đức và tôn giáo mà ông tin rằng người Mỹ thích nghe, thậm chí ông thường bị chỉ trích bởi những nhà quan sát trong nước và nước ngoài vì vì ngôn ngữ mạnh của mình.
 
Hai trong những nhân vật hàng đầu ở giai đoạn giữa hai cuộc chiến và đầu thời kỳ Chiến tranh Lạnh xem xét các quan hệ quốc tề từ một quan điểm "[[Chủ nghĩa hiện thực (quan hệ quốc tế)|hiện thực]]", nhà ngoại giao [[George F. Kennan|George Kennan]] và nhà lý luận [[Reinhold Niebuhr]], đã rất bận tâm tới chủ nghĩa đạo đức của Dulles và phương pháp theo đó ông phân tích cách hành xử của Liên . Kennan đồng ý với lý lẽ rằng Liên thậm chí có một thiết kế thế giới sau khi Stalin chết, và còn quan tâm nhiều hơn với việc duy trì sự kiểm soát với khối của mình. Nhưng những giả định bên dưới của một thế giới cộng sản bền vững, được định hướng từ Kremlin, về chính sách ngăn chặn của Truman-Acheson sau bản dự thảo của NSC-68 [http://www.mtholyoke.edu/acad/intrel/nsc-68/nsc68-1.htm] là đặc biệt so sánh được với những điều của chính sách đối ngoại Eisenhower-Dulles. Những kết luận của [[Paul Nitze]] trong các văn bản của [[Hội đồng An ninh Quốc gia Hoa Kỳ|Hội đồng An ninh Quốc gia]] như sau:
 
:<small>Điều gì mới, điều gì tạo ra các cuộc khủng hoảng đang diễn ra, là sự phân cực quyền lực vốn chắc chắn gây xung đột giữa xã hội nô lệ và xã hội tự do… Liên , không giống như những kẻ muốn có quyền bá chủ trước kia, bị điều khiển bởi một đức tin cuồng tín mới, trái ngược với đức tin của chúng ta, và đang tìm cách áp đặt quyền lực tuyệt đối của nó… [tại] Liên và thứ hai trong khu vực hiện thuộc quyền kiểm soát [của họ]… Tuy nhiên, trong tâm tưởng của các nhà lãnh đạo Liên , việc hoàn thành mong ước này đòi hỏi sự mở rộng mạnh quyền lực của họ... Vì thế những nỗ lực hiện nay của Liên đang hướng tợi việc thống trị các khu vực đất đai Âu Á." [http://occawlonline.pearsoned.com/bookbind/pubbooks/nash5e_awl/medialib/timeline/docs/sources/theme_primarysources_Military_2_20.html]</small>
 
===Mossadegh và CIA tại Iran===
Dòng 222:
===Khủng hoảng kênh Suez===
{{chính|Khủng hoảng kênh Suez}}
Trung Đông trong Chiến tranh Lạnh là một vũ đài rất quan trọng và cũng rất không ổn định. Vùng này nằm trực tiếp phía nam [[Thổ Nhĩ Kỳ]] và [[Iran]] nơi Liên có ảnh hưởng truyền thống rất mạnh. Vùng này cũng có những trữ lượng dầu mỏ to lớn, không tối cần thiết cho bất kỳ một siêu cường nào trong thập niên 1950 nhưng là tối quan trọng cho việc nhanh chóng xây dựng các đồng minh của Mỹ ở châu Âu và [[Nhật Bản]].
 
Kế hoạch ban đầu của Mỹ về Trung Đông là hình thành nên một vành đai phòng vệ dọc theo biên giới phía bắc của vùng. Vì thế Thổ Nhĩ Kỳ, Iraq, Iran, và Pakistan đã ký Hiệp ước Baghdad và gia nhập CENTO. Phương Đông trả đũa bằng cách tìm kiếm ảnh hưởng tại các quốc gia như [[Syria]] và [[Ai Cập]]. Tiệp Khắc và Bulgaria lập các hợp đồng vũ khí với Ai Cập và Syria, khiến các thành viên Khối hiệp ước Warsaw có sự hiện diện mạnh trong vùng. Ai Cập, một nước bảo hộ cũ của Anh, là một trong những nước quan trọng nhất trong vùng với dân số lớn và quyền lực chính trị bao trùm cả vùng. Các lực lượng Anh đã bị Tướng [[Gamal Abdel Nasser]] loại bỏ năm 1956, khi ông quốc hữu hoá [[Kênh đào Suez|Kênh Suez]]. Syria là một nước bảo hộ cũ của Pháp.
Dòng 231:
 
===Nam Á===
[[Tiểu lục địa Ấn Độ]], có lẽ ngoại trừ trong [[Liên xâm lược Afghanistan|cuộc chiến ở Afghanistan]], không bao giờ là ưu tiên hàng đầu thu hút sự chú ý của siêu cường trong cuộc Chiến tranh Lạnh. Châu Âu, Đông Á, Mỹ Latinh, và Trung Đông luôn được coi là có tầm quan trọng lớn hơn với các lợi ích của các siêu cường. Các quốc gia [[Nam Á]], dù chiếm một phần năm dân số thế giới, không phải là các nền kinh tế mạnh như Nhật Bản hay Tây Âu. Không như Trung Đông với các giếng dầu của nó, Nam Á thiếu các nguồn tài nguyên có tính quan trọng sống còn. Tuy nhiên, lợi ích lớn nhất của Hoa Kỳ trong vùng là việc thành lập các sân bay có thể sử dụng làm căn cứ cho các chuyến bay [[Lockheed U-2|U-2]] trên lãnh thổ Liên , hay trong trường hợp chiến tranh sẽ là nơi hạ cánh cho các máy bay ném bom hạt nhân có thể với tới [[Trung Á]]. Ban đầu, cả người Mỹ và người Liên đều cho rằng vùng này sẽ tiếp tục ở trong vùng ảnh hưởng của Anh, nhưng thực tế đã không diễn ra như vậy.
 
Có một số lý do chiến lược để dính líu tới Nam Á. Người Mỹ hy vọng các lực lượng vũ trang [[Pakistan]] có thể được sử dụng để ngăn chặn bất kỳ sự xâm nhập nào của Liên vào khu vực Trung Đông tối quan trọng. Họ cũng cảm thấy rằng là một quốc gia lớn và có nhiều tiềm năng, Ấn Độ sẽ là một giải thưởng đáng giá nếu nó rơi vào tay phe khác. Ấn Độ, một nền dân chủ đang phát triển, chưa bao giờ rơi vào tình thế đặc biệt nguy hiểm trước nguy cơ rơi vào tay những kẻ phiến loạn hay áp lực bên ngoài từ một cường quốc lớn. Họ cũng không muốn liên minh với Hoa Kỳ.
 
Một sự kiện quan trọng ở vũ đài Nam Á của cuộc cạnh tranh thời Chiến tranh Lạnh và việc ký kết [[Thoả thuận Hỗ trợ Quốc phòng Song phương]] giữa Pakistan và Hoa Kỳ năm 1954. Hiệp ước này sẽ hạn chế các lựa chọn sau này của mọi cường quốc lớn trong vùng. Hoa Kỳ cam kết duy trì quan hệ chặt chẽ với Pakistan. Với Pakistan, liên minh với Hoa Kỳ trở thành một giáo lý trung tâm của chính sách đối ngoại của họ, và dù có nhiều bất mãn với nó, nó vẫn luôn được coi là một mối quan hệ quá có giá trị để từ bỏ. Sau cuộc [[chia rẽ Trung-Xô]], Pakistan cũng theo đuổi các quan hệ với Trung Quốc.
 
Chính sách của Liên về Nam Á rất gần với chính sách của Hoa Kỳ. Ban đầu người Liên , giống như người Mỹ, hầu như không quan tâm tới vùng này và duy trì một lập trường trung lập trong những cuộc tranh cãi Ấn Độ-Pakistan. Với việc ký kết các thoả thuận giữa Pakistan và Hoa Kỳ năm 1954, cùng với việc các quốc gia tham dự vào CENTO và SEATO, tình thế đã thay đổi. Năm 1955, Bulganin và Khrushchev quay sang Ấn Độ và hứa hẹn những khoản tài chính lớn cũng như việc hỗ trợ xây dựng cơ sở công nghiệp cho nước này. Tại [[Sringar]], thủ phủ của [[Kashmir]], các lãnh đạo Liên đã tuyên bố rằng Liên bang Xô viết sẽ từ bỏ vị thế trung lập của mình và ủng hộ Ấn Độ trong cuộc tranh cãi đang diễn ra tại Kashmir.
 
Tuy nhiên, [[Jawaharlal Nehru]] vẫn còn hoài nghi, và vì nhiều lý do ông muốn trãnh những vướng mắc với Hoa Kỳ và ông cũng muốn giữ Ấn Độ không bị lệ thuộc quá nhiều vào Liên . Dù Liên đã gửi cho Ấn Độ một số viện trợ và dù Nehru trở thành nhà lãnh đạo không cộng sản đầu tiên phát biểu trước nhân dân Liên , hai quốc gia vẫn khá xa cách. Sau khi Khrushchev bị hạ bệ, người Liên lại khôi phục lập trường trung lập và làm dịu nhẹ hậu quả của cuộc [[Chiến tranh Ấn Độ-Pakistan năm 1965|chiến tranh năm 1965]]. Những cuộc đàm phán hoà bình được tổ chức tại thành phố [[Tashkent]] vùng Trung Á.
 
Tới cuối những năm 1960s, những nỗ lực phát triển của Ấn Độ một lần nữa trở nên trì trệ. Một sự thâm hụt tài khoản vãng lai lớn xuất hiện và một trận hạn hán nghiêm trọng ảnh hưởng nặng nề tới ngành nông nghiệp. Như với sự suy giảm của một thập kỷ trước đó, Ấn Độ một lần nữa lại tìm kiếm sự giúp đỡ từ bên ngoài. Tuy nhiên, các quan hệ khi ấy đã ở mức rất thấp với Hoa Kỳ, nước đang rất bận tâm tới Việt Nam. Trên hết, nhiều vấn đề nhỏ hơn khác đã khiến sự dửng dưng của Hoa Kỳ trở thành ác cảm. Các tổ chức quốc tế phương Tây như [[Ngân hàng Thế giới]] cũng không muốn cam kết các khoản tiền cho các dự án phát triển ở Ấn Độ nếu không có những nhượng bộ về thương mại của họ.
 
Cùng với các quốc gia Khối hiệp ước Warsaw khác, người Liên bắt đầu cung cấp viện trợ ở quy mô lớn cho những nỗ lực của Ấn Độ nhằm xây dựng một cơ sở công nghiệp. Năm 1969, hai cường quốc đàm phán một hiệp ước hữu nghị có thể biến sự không liên kết chỉ còn là lời mở đầu. Hai năm sau, khi phải đối mặt với cuộc khủng hoảng ngày càng gia tăng ở [[Đông Pakistan]] (hiện là [[Bangladesh]]), Ấn Độ đã ký kết thoả thuận.
 
====Nam Á và cuộc Chia rẽ Trung-Xô====
Trước cuộc chia rẽ Trung-Xô, những căng thẳng giữa Ấn Độ và Trung Quốc đã cản trở những cố gắng của Liên nhằm duy trì mối quan hệ chặt chẽ với cả hai cường quốc Châu Á đang nổi lên này. Tháng 3 năm 1959, Trung Quốc [[Xâm chiếm Tây Tạng|đàn áp một cuộc nổi dậy ở Tây Tạng]], dẫn tới sự bùng nổ chiến tranh giữa Trung Quốc và Ấn Độ. Ngày [[31 tháng 3]], [[Tenzin Gyatso, Đạt Lai Lạt Ma thứ 14|Đạt Lai Lạt Ma]], nhà lãnh đạo tinh thần và thế tục của Tây Tạng, bỏ trốn sang Ấn Độ, nơi ông được trao quy chế tị nạn vì sự phản kháng Trung Quốc. Sau này Ấn Độ ủng hộ một hành động tại đại hội đồng [[Liên Hiệp Quốc|Liên hiệp quốc]] để bước vào một cuộc tranh luận ở mức độ cao nhất về các trách nhiệm [[nhân quyền]] của Trung Quốc trong vụ đàn áp với sự phản đối của Liên , Ba Lan, Nam Tư, Albania, Romania, Bulgaria, Đông Đức, Hungary, Tiệp Khắc, Bắc Triều Tiên và Mông Cổ. Tuy nhiên, dù có sự phản đối của Khối hiệp ước Warsaw, Mông Cổ và Bắc Triều Tiên với cuộc tranh cãi được Ấn Độ ủng hộ ở Liên hiệp quốc, Mao Trạch Đông dần đối đầu với thái độ im lặng và lưỡng lự trong việc ủng hộ các hành động của Trung Quốc ở Tây Tạng.
 
Cuộc xâm lược Tây Tạng của Trung Quốc tạo ra một sự đối đầu nguy hiểm hơn nhiều giữa Ấn Độ và Trung Quốc. Ngày [[29 tháng 8]] năm [[1959]], Thủ tướng Nehru thông báo với nghị viện Ấn Độ rằng quân đội Trung Quốc đã xâm lược Ấn Độ từ cả hai sườn của Tây Tạng và đã chiếm giữ nhiều đồn biên phòng. Dẫn ra những căng thẳng với Ấn Độ trong nhiều năm qua, Trung Quốc tiết lộ rằng họ không còn chấp nhận [[Đường McMahon]] giữa Trung Quốc và Ấn Độ như một biên giới pháp lý nữa, và đưa ra các yêu cầu chủ quyền với Aksai Chin, Sikkim và nhiều phần của Assam(hiện là Arunachal Pradesh). Những trách nhiệm và lên án trách nhiệm vi phạm biên giới và tình trạng thù địch diễn ra. Ngày [[9 tháng 9]], vài ngày trước chuyến đi tới Hoa Kỳ, Janos Kadar của Hungary đã tìm cách hoà giải những tranh cãi giữa Trung Quốc và Ấn Độ, với hy vọng có được những quan hệ thân thiện với cả hai bên. Khruschev và [[Alexander Dubček]] của Tiệp Khắc cũng lên tiếng yêu cầu Trung Quốc và Ấn Độ. Tuy nhiên, phản ứng của Trung Quốc với những lời kêu gọi của Liên , Hungary và Tiệp Khắc về sự "cùng tồn tại hoà bình" với phương Tây và Ấn Độ không được coi là đáng khích lệ; và sự gia tăng căng thẳng dọc dãy [[Himalaya]]s đã thu hút sự chú ý của thế giới với liên minh Khối hiệp ước Warsaw-Trung Quốc, vốn dựa trên các quyền lợi lý tưởng, chính trị và quân sự chung.
 
Tới khi sự tranh cãi biên giới Trung-Ấn phát triển lên thành một cuộc chiến ở cấp độ lớn nhất trong cuộc [[Chiến tranh Trung-Ấn]] năm 1962, liên minh giữa hai cường quốc cộng sản hàng đầu cũng tan vỡ. Dù các quốc gia thuộc Khối hiệp ước Warsaw ủng hộ đề xuất hoà bình tháng 10 năm 1962 của Trung Quốc, hối thúc Nehru chấp nhận nó, việc Albania và Romania đề nghị cung cấp các máy bay chiến đấu [[Mikoyan|MiG]] cho Ấn Độ đã khiến các quan hệ Trung Quốc-Albania và Trung Quốc-Romania trở nên khủng hoảng. Điều này cũng khiến Trung Quốc quay sang chống lại các quốc gia cộng sản châu Âu khác. Tới cuối năm 1963, Khối Đông Âu và Trung Quốc đã lao vào những cuộc [[tranh cãi]] chống lại nhau, mở ra một giai đoạn thù địch công khai giữa các đồng minh cũ và kéo dài trong suốt thời kỳ còn lại của cuộc Chiến tranh Lạnh.
Dòng 258:
Trong giai đoạn này, các chủ đề Chiến tranh Lạnh lần đầu tiên đi vào xu thế chủ đạo của văn hoá như một mối lo lắng của mọi người. Bộ phim năm 1959 ''[[On the Beach (phim 1959)|On the Beach]]'', là một ví dụ, nó thể hiện một cái chết từ từ, của một thế giới hậu khải huyền còn lại sau một cuộc chiến tranh hạt nhân của Thế chiến III.
 
[[James Bond]] lần đầu tiên xuất hiện trong một bộ phim năm 1954; những bộ phim James Bond được thực hiện không liên quan chặt chẽ với Chiến tranh Lạnh, nhưng những người hâm mộ yêu mến những phụ nữ đẹp, những địa điểm đẹp đẽ, những vũ khí tinh xảo, và những hành động xem thường cái chết, và có lẽ ít chú ý hơn tới chính trị. Những bộ phim về Bond thích ứng với không khí chính trị khi thể hiện những người Liên và những người Trung Quốc "Đỏ".
 
NHững tiểu thuyết trinh thám của [[Frederick Forsyth]] đã được bán hàng trăm nghìn bản. ''The Fourth Protocol'', tên của nó phản ánh một loạt các thoả thuận ngầm, nếu bị phá vỡ, sẽ dẫn tới chiến tranh hạt nhân và tất cả đều đã bị phá vỡ ngoại trừ thoả thuận tứ tư và duy nhất còn lại, đã được chuyển thể thành một bộ phim với diễn viên ngôi sao [[Michael Caine]]. Tâm điểm của những bộ phim kiểu tiểu thuyết như thế là các bộ phim Mỹ của thập niên 1950, như ''[[My Son John]]'', ''[[Kiss Me Deadly]]'', và ''[[The Manchurian Candidate]]'' —là để phỉ báng "kẻ thù bên trong," các nhà hoạt động trong phong trào hoà bình phản bội, và những cử tri đơn giản của Công Đảng những người, vào năm 1988, đã tuần hành chống Chiến tranh Lạnh.