Khác biệt giữa bản sửa đổi của “LTV A-7 Corsair II”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n bỏ dấu, replaced: đượ → được (121), đượcc → được (120) |
n →Đông Nam Á: chính tả, replaced: thât → thật |
||
Dòng 44:
=== Đông Nam Á ===
Tại Việt Nam, không khí nóng và ẩm lấy mất lực đẩy của ngay cả các phiên bản A-7D và A-7E được nâng cấp. Đường băng cất cánh kéo dài và máy bay trang bị vũ khí đầy đủ phải gắng sức mới đặt được tốc độ 800 km/h. Phi công châm biếm rằng chiếc Corsair "không
Những chiếc A-7A Hải quân đầu tiên được bố trí đến Việt Nam vào năm [[Hàng không năm 1967|1967]] cùng Phi đoàn ''VFA-147 Argonauts'' trên chiếc tàu sân bay [[USS Ranger (CVA-61)|USS ''Ranger'']]. Chiếc máy bay thực hiện phi vụ chiến đấu đầu tiên vào ngày [[4 tháng 12]] năm [[Hàng không năm 1967|1967]]. Trong những tháng sau đó, VA-147 bay khoảng 1.400 phi vụ và chỉ mất một máy bay. Đến [[tháng một|tháng 1]] năm [[Hàng không năm 1968|1968]], tàu sân bay USS ''Ranger'' tham gia vào sự kiện chung quanh việc tàu khu trục [[USS Pueblo (AGER-2)|USS ''Pueblo'']] bị phía [[Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên|Bắc Triều Tiên]] bắt giữ trong vùng [[Biển Nhật Bản]]. Phiên bản cải tiến A-7B của Hải quân đến Việt Nam vào đầu năm [[Hàng không năm 1969|1969]], và phiên bản cuối cùng A-7E tiếp nối vào năm [[Hàng không năm 1971|1971]].
|