Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Cao Văn Viên”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi |
Đã lùi lại sửa đổi thiện ý của Hoàng Đình Thảo: Không nên thêm các chi tiết thừa vào bài. (TW) |
||
Dòng 1:
{{Tiểu sử quân nhân
|tên= Cao Văn Viên
|ngày sinh=[[11
|ngày mất=
|hình= [[Tập tin:caovanvien.jpg]]
|chú thích hình= Cao Văn Viên
Hàng 20 ⟶ 19:
}}
'''Cao Văn Viên''' (1921-2008)
==Thân thế và bước đầu binh nghiệp==
Ông sinh ngày [[11
*Song thân: Cụ Cao văn Tý & Cụ Nguyễn Thị Võ▼
* Ông bà có 2 người con: 1 trai, 1 gái. Cô con gái hiện là (2015) giáo sư luật và cũng là nhà văn [[Lan Cao]].▼
Năm 1952, ông được bổ nhiệm làm Trưởng Phòng 2 (tình báo) Khu chiến Hưng Yên. Năm 1954, đổi sang làm Trưởng Phòng 3 (tác chiến) Khu chiến Hưng Yên. Tháng 3 năm 1955, thăng [[Thiếu tá]], Trưởng Phòng 4 (tiếp vận) Bộ Tổng tham mưu Quân đội Quốc gia Việt Nam.
Sau khi chính thể [[Việt Nam Cộng hòa]] được thành lập, ông được cử làm Tùy viên Quân sự Đại sứ quán Việt Nam Cộng hòa tại Washington DC, [[Hoa Kỳ]]. Năm 1957, được cử theo học lớp Chỉ huy & Tham mưu tại trường Fort Leavenworth, Kansas, Hoa Kỳ.
Sau khi tốt nghiệp về nước, tháng 2 năm 1958, ông được bổ nhiệm làm Tham mưu trưởng Biệt bộ Tham mưu Phủ Tổng thống. Cuối năm ông được thăng [[Trung tá]].
==Người đứng ngoài các cuộc đảo chính==
Sau khi tướng [[Nguyễn Khánh]] thực hiện cuộc [[Cuộc chỉnh lý tại Việt Nam Cộng hòa 1964|chỉnh lý]] để giành quyền lực, để tranh thủ sự ủng hộ của các sĩ quan trẻ, ngày [[3 tháng 3]] năm 1964, tướng Khánh đã thăng đặc cách cho ông tại mặt trận lên cấp [[Thiếu tướng]] (ông bị thương trong cuộc hành quân Quyết Thắng tại [[Hồng Ngự]]). Ông là vị Đại tá cuối cùng được thăng cấp Thiếu tướng trước khi Việt Nam Cộng hòa đặt ra quy chế phong Đại tá lên Chuẩn tướng.<ref>Lâm Vĩnh Thế, ''Nhóm tướng trẻ trong Quân lực Việt Nam Cộng hòa vào giai đoạn 1964-1965.</ref>
▲Năm 1960: Ngày 11/11, ông bị lực lượng đảo chính của Đại tá [[Nguyễn Chánh Thi]] bắt giữ và được thả ra sau khi cuộc đảo chính hoàn toàn thất bại. Ngày 12/11, bàn giao chức Tham mưu trưởng Biệt bộ lại cho Thiếu tá [[Lê Như Hùng]] ''(Nguyên Tỉnh trưởng Kiến Hoà, giải ngũ năm 1963 ở cấp Trung tá)''. Sau đó nhận chức Tư lệnh Lư đoàn Nhảy dù thay Đại tá [[Nguyễn Chánh Thi]] đã đào thoát san Cam Bốt. Cuối năm ông được thăng cấp [[Đại tá]].
▲Năm 1963: Trong cuộc đảo chính [[1 tháng 11]] năm [[1963]], ông là một trong những số ít sĩ quan cao cấp trung thành với Tổng thống [[Ngô Đình Diệm]], kiên quyết không đứng về phe đảo chính do các tướng lĩnh [[Dương Văn Minh]], [[Trần Văn Đôn]], [[Tôn Thất Đính]], [[Mai Hữu Xuân]], [[Lê Văn Kim]] tiến hành. Vì vậy ông bị các tướng lĩnh tước quyền chỉ huy Lữ đoàn Nhảy Dù. Tuy nhiên do sự can thiệp của Tướng Tôn Thất Đính nên ông chỉ bị cách ly mà không rơi vào số phận bi thảm như các Đại tá [[Hồ Tấn Quyền]] và [[Lê Quang Tung]]. Sau 1 tuần lễ ông được phục hồi chức Tư lệnh Lữ đoàn Dù.
Năm 1966: Kiêm nhiệm chức vụ Tư lệnh Hải quân thay cho
▲Năm 1965: Sau cuộc chính biến của các tướng trẻ gạt bỏ tướng Nguyễn Khánh khỏi chính quyền, ông được thăng quân hàm [[Trung tướng]] và ngày 14/10 ông được cử vào chức vụ Tổng Tham mưu trưởng ''(Sau khi bàn giao Quân đoàn III lại cho Thiếu tướng [[Nguyễn Bảo Trị]])'' thay Trung tướng [[Nguyễn Hữu Có]] Tổng trưởng Quốc phòng đang kiêm nhiệm.
▲Năm 1966: Kiêm nhiệm chức vụ Tư lệnh Hải quân thay cho Hải quân Đại tá [[Trần Văn Phấn]] ''(Tốt nghiệp khoá 1 Hải quân Nha Trang, năm 1966 giải ngũ)''. Sau 1 tháng, bàn giao chức vụ này lại cho Hải quân Đại tá [[Trần Văn Chơn]] ''(Nguyên Chỉ huy trưởng Lực lượng Tuần giang)''.
Năm 1967: Đầu năm, Trung tướng [[Nguyễn Hữu Có]] bị bãi chức trong khi đang đi công du tại Đài Loan, ông kiêm nhiệm chức vụ Tổng trưởng Quốc phòng trong thời gian ngắn. Cũng váo thời điểm này, ông được thăng quân hàm [[Đại tướng]].
Hàng 87 ⟶ 69:
Lý giải sự việc này, theo cuộc phỏng vấn của Lý Thanh Tâm tháng 12 năm 2004, ông cho rằng do Tổng thống Thiệu, với tư cách Tổng tư lệnh Quân đội, đã tập trung hết quyền binh trong tay, đã cho đặt một hệ thống máy truyền tin tại dinh Độc lập để liên lạc thẳng với các quân khu, điều động các đơn vị, bổ nhiệm tư lệnh vùng và ra lệnh trực tiếp hành quân. Bộ Tổng Tham mưu chỉ còn giữ vai trò tuân hành và thị chứng. Do đó, ông đã nhiều lần xin từ chức nhưng không được chấp thuận. Vì vậy ông chỉ có thể phản ứng bằng cách tiêu cực như trên.
==
*'''Nguồn:''' "Lược sử Quân lực Việt Nam Cộng hoà". Trần Ngọc Thống & Hồ Đắc huân 2011.▼
▲
==Chú thích==
{{tham khảo|2}}
==Tham khảo==
{{Đại tướng Quân lực Việt Nam Cộng hòa}}
Hàng 97 ⟶ 85:
[[Thể loại:Đại tướng Việt Nam Cộng hòa]]
[[Thể loại:
[[Thể loại:Cựu binh Quân đội Thuộc địa Pháp]]
[[Thể loại:
[[Thể loại:
[[Thể loại:Người Việt di cư tới Mỹ]]
|