Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Đội hình phalanx”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n chính tả, replaced: phiêm → phiên using AWB
n chính tả, replaced: khỏang → khoảng (19)
Dòng 20:
[[Tập tin:Greek Phalanx.jpg|nhỏ|trái|350px|Tổ chức hoplite truyền thống và cách tiến tới]]
 
Đội hình hoplite phalanx từ thời [[Archaic]] và Cổ Đại ở Hy Lạp (khỏangkhoảng 750 – 350 TCN) là một đội hình mà hoplite sẽ sắp xếp khăn khít trong hàng ngũ. Hoplite sẽ để sát khiên với nhau, và những hàng đầu trước hàng đầu tiên thì đưa giáo qua đầu hàng đầu tiên. Đội hình phalanx vì vậy đặc trưng cho một bức tường khiên và những cây giáo chĩa đồng loạt về phía quân thù, làm cho tấn công trước mặt trở nên khó hơn. Nó cũng cho phép nhiều người lính có thể tham gia chiến trận hơn tại một thời điểm xác định (khác với trường hợp chỉ những người hàng đầu tiên mới được tham gia)
 
Phalanx thường từ từ bước tới, dù họ vẫn có thể tăng tốc độ ở những yard cuối cùng. [[Herodotus]] của Hy Lạp nói rằng, ở [[Trận Marathon]], "đó là những người lính Hy Lạp đầu tiên chúng ta biết xông tới đối thủ (charging) khi đang chạy". Nhiều nhà sử học tin rằng cuộc cách mạng này chủ yếu là vì họ muốn giảm thiểu thương vong từ lính đánh xa Ba Tư. Hai phía có thể chạm nhau, nhiều cây giáo ở hàng đầu có thể rung lên. Trong trận đánh, toàn bộ đội hình sẽ từ từ ấn tới trước để cố đánh xuyên qua đội hình đối phương, vậy khi hai đội hình phalanx chạm nhau, sự run này có thể chủ yếu trở thành một cuộc chiến của sự đâm tới trước, vì vậy khi đó, luật là những phalanx có đội hình sâu hơn thường bao giờ cũng thắng, rất ít ngoại lệ được ghi nhận.
Dòng 30:
{{Quote box|quote="Nói về những kẻ, những kẻ dám, đứng kề sát bên nhau không xê dịch, tiến tới khăng khít và uy hùng, và những chiến binh đứng trước nhất, vì vậy có thể ít gục ngã hơn, và đã cứu thoát những kẻ đứng phía sau; nhưng những tên dám sợ hãi, thì mọi thứ sẽ sụp đổ. Không ai có thể chỉ dựa vào lời nói mà vượt qua cảm xúc đó, cảm xúc đánh gục con người, nếu đã bị hèn yếu chiếm lĩnh. Thật nhục nhã khi bị đâm chết từ sau lưng ở những hàng sau... Sỉ nhục hơn là những xác chết nằm không ai biết, bị thương ngay sau lưng bởi một nhát đâm."|source='''Tyrtaeus: The War Songs Of Tyrtaeus'''}}
 
Phalanx của [[Vương Quốc Macedonia Cổ]] và những [[thành bang Hy Lạp]] sau này là một sự phát triển đội hình phalanx. ‘Phalangites" được vũ trang bởi giáo dài hơn nhiều và ít được trang bị nặng hơn. [[Sarissa]] được cầm bằng hai tay, phalangiste cầm ít khiên hơn nhiều, được ép vào trong cánh tay. Vì vậy, dù là phalanx Macedonia có cấu trúc tương tự như phalanx hoplite, thì nó có những đặc trưng chiến thuật khác rất nhiều. Với giáo rất dài, tối đa năm hàng phalangites có thể đưa vũ khí tới tận hàng đầu; giữ đối phương không thể tới gần ở khỏangkhoảng cách lớn hơn. Phalanx Macedonia tạo thành bức tường khiên khó hơn nhiều, nhưng giáo dài ra đã bù đắp việc đó. Đội hình phalanx như vậy có vẻ như có thể giảm thiểu những trận đánh suy thoái thành cuộc chiến dậm tới trước.
 
=== Vũ trang cho Hoplite ===
 
Vũ khí quan trọng nhất là chiếc giáo khỏangkhoảng 2.7 m gọi là doru. Mặc dù có nhiều ghi chép khác nhau về độ dài của nó, bây giờ thường người ta cho rằng nó khỏangkhoảng 7 – 9 feet (~2.1 - ~2.7 m). Nó được cầm một tay, tay kia cầm khiên. Mũi giáo thường cong hình lá cây, cạnh giáo có một que nhọn gọi là sauroter, được dùng để cắm giáo trên mặt đất(cũng là lí do của tên gọi nó). Nó cũng dùng làm vũ khí thứ cấp nếu như mũi giáo bị cong, hoặc dùng cho những đơn vị bên cánh xử lý những kẻ thù đã gục ngã khi phalanx tiến tới. Hoplite dùng giáo dọc theo phía trên cánh tay hay phía dưới cánh tay vẫn là đề tài tranh cãi giữa các nhà sử học. Cầm dưới cánh tay thì yếu hơn nhưng dễ kiểm sóat hơn, và ngược lại. Có vẻ như cả hai cách đều được dùng, tùy tình huống. Nếu chỉ huy ra lệnh tấn công, thì cầm trên cánh tay có vẻ dễ xuyên phá phòng thủ đối phương hơn. Cú đâm hướng đi lên dễ bị giáp đối phương làm chệch hướng vì lực đòn bẩy yếu hơn. Dù vậy, khi phòng thủ, cầm giáo dưới cánh tay có vẻ gây sốc lớn hơn, nó có thể được đặt nằm dài dưới vai để tăng tính ổn định. Cũng có nguồn cho rằng động tác tấn công khi đặt giáo trên cánh tay sẽ cho ra một sự kết hợp hiệu quả hơn giữa chiếc aspis và doru khi bức tường khiên đã bị đánh đổ, còn động tác tấn công khi đặt giáo dưới cánh tay sẽ hiệu quả hơn khi những chiếc khiên được nối dài thành một hàng. Các hoplite đứng trong những hàng phía sau hàng đầu tiên thì gần như chắc chắn là dùng giáo trên cánh tay khi đang chiến đấu. Những hoplite này khi không chiến đấu sẽ cầm giáo dưới cánh tay và nâng giáo lên với góc nâng càng về sau càng tăng. Chiến thuật này cho một sự phòng thủ tốt khi bị những đơn vị đánh xa tấn công, khi nó làm chệch hướng sức mạnh này.
 
Hoplite cũng mang một đỏan kiếm gọi là [[xiphos]]. Đỏan kiếm này sử dụng như vũ khí thứ cấp, chỉ dùng khi hàng giáo bị xuyên thủng, hoặc phalanx bỏ đội hình. Khi đối phương bỏ chạy, hoplite sẽ thả khiên và giáo, sau đó đuổi theo đối phương bằng đỏan kiếm. Một bất lợi của xiphos là nó vô cùng nặng và không có tầm tấn công cao bằng phần lớn kiếm trong giai đọan đó.
Dòng 40:
=== Vũ trang cho Phalangites ===
 
[[Sarissa]] là giáo sử dụng trong quân đội Macedonia cổ. Không biết được độ dài thực sự của sarissa, nhưng có lẽ nó dài gấp đôi doru. Như vậy nó ít nhất cũng 14 feet (~4.3m), nhưng 18 (~5.5m) có vẻ đúng như vậy hơn. (Cây [[xyston]] kỵ binh dài 12.5 feet (~3.8m). Độ dài rất lớn của chiếc giáo được cân bằng trọng lượng bời một đối trọng ở khỏangkhoảng cuối cây giáo, cũng là thứ được dùng để giúp cây giáo cắm xuống đất. Vì độ dài rất lớn của nó, cân nặng và những sự cân bằng khác, cây sarissa được cầm hai tay. Như vậy, aspis không còn được sử dụng như một phương tiện phòng thủ hữu hiệu. Vì vậy, phalangites giữ một cái khiên [[pelte]] (những cái này thường được cung cấp cho lính đánh xa – peltasts) ở cẳng tay trái. Dù điều này làm giảm đi khả năng lập bức tường khiên, độ dài quá lớn của chiếc giáo ngăn chặn phần lớn kẻ thù tiến tới gần, khi mà giáo khỏangkhoảng ba đến năm hàng đầu có thể được đưa ra trước hàng đầu tiên. Chiếc giáo được cầm ở dưới cánh tay, để chiếc khiên có thể tránh che mất tầm nhìn người lính nếu được cầm qua đầu. Cũng rất khó để tháo rồi sarissa ra thứ gì mà nó mắc vào (đất, khiên, hoặc lính đối phương), nếu nó bị đâm xuống dưới, vì độ dài của nó.
 
== Dàn trận và chiến đấu ==
Dòng 46:
=== Cấu trúc phalanx và sức mạnh ===
 
Thành tố chiến đấu căn bản của quân đội Hy Lạp là stoichis hoặc stoichos (nghĩa là "hàng ngũ") hoặc enomotia (nghĩa là "lời thề") từ sức mạnh 16 đến 25 người, lãnh đạo bởi một decadarchos được hỗ trợ bởi một dimoerites và hai decasteroe(tức decasterous). Từ bốn đến tối đa 32 enomtiae (phụ thuộc vào thời kỳ hoặc vào thành bang) đã tạo nên một lochos được lãnh đạo bởi một lochagos, điều khiển khỏangkhoảng ban đầu từ 100 hoplite đến tối đa 500 trong những đội quân Hy Lạp sau này. Một taxis (mora với người Sparta) là đội hình hoplite chuẩn lớn nhất từ 500 tới 1500 người, được điều khiển bởi một strategos(hay vị tướng). Toàn thể quân đội, với toàn bộ khỏangkhoảng vài taxeis hoặc morae được lãnh đạo bởi hội đồng tướng lĩnh. Sau này, kẻ đứng đầu quân đội là polemarchos (democracies) khi mà chỉ một sự không đồng tình của người này đồng nghĩa với một sự phủ quyết tức strategos autocrator (liên minh độc tài) hay một vị vua (với vương quốc).
 
=== Mặt trước đội hình và chiều sâu ===
 
Các hoplite phalanx thường dàn với hàng ngũ khỏangkhoảng 8 người hoặc sâu hơn; Phalanx Macedonia thường khỏangkhoảng tối đa 16 người. Có một vài ngoại lệ nổi tiếng; ví dụ như, trong trận Leuctra và Mantinea, vị tướng người Thebes Epaninondas đã sắp xếp cánh trái phalanx thành một mũi rìu khỏangkhoảng 50 hàng với hoplite tinh nhuệ nằm phía sau.
 
Độ sâu của phalanx, dù vậy, có thể thay đổi phụ thuộc vào nhu cầu, và kế hoạch của vị tướng. Khi mà phalanx đang di chuyển, một đội hình eis bathos (dàn trải) đã được sử dụng để tiến tới đơn giản hơn và giữ được trật tự đội hình. Đây cũng là đội hình chiến đấu ban đầu, nghĩa là, cho phép lính phe ta đi qua chỗ trống dù với mục đích tấn công hay rút lui. Trong trạng thái này, phalanx có độ sâu gấp đôi(tính cả chiều dài đất) hơn bình thường và mỗi hoplite phải giữ một độ dài khỏangkhoảng 1.8 – 2m (6–7 ft). Khi bộ bình đối phương tiến tới, một sự rút lại nhanh chóng thành đội hình pykne (khăng khít) là cần thiết. Trong tình huống đó, khỏangkhoảng cách các hàng sẽ rút lại một nửa (0.9-1m hoặc 3 ft về độ dài) và chiều sâu đội hình lại như cũ. Nhưng nếu phalanx bị thương tổn quá nặng, bị tấn công từ xa hoặc bị kỵ binh công kích trước mặt, một sự chuyển đổi tức thì thành đội hình synaspismos (cực kỳ khăng khít) là bắt buộc. Trong synaspismos, khỏangkhoảng cách đội hình bằng một nửa ban đầu và khỏangkhoảng cách giữa mỗi người vào khỏangkhoảng 0.45 m (1.5 ft)
 
=== Những bước tiến hành ===
Dòng 80:
== Điểm yếu ==
 
Hoplite phalanx yếu nhất khi gặp những lực lượng trang bị nhẹ hơn và linh hoạt hơn nếu không có những lực lượng hỗ trợ như vậy. Ví dụ như [[trận Lechaeum]], một lực lượng Athens lãnh đạo bởi [[Iphicrate]] đã đánh cho một Sparta mora (một đơn vị khỏangkhoảng 500 – 900 bộ binh nặng)tan tành. Quân Athens có sự cân bằng đáng kể giữa lính đánh xa nhẹ với javelin (lao) hoặc nỏ đã đánh gục những đợt tấn công liên hồi của Sparta, tạo ra sự hỗn loạn trong hàng ngũ Sparta và dĩ nhiên đã bỏ chạy khi thấy bộ binh nặng Athens cứu viện và định tấn công vào sườn họ bằng thủy quân.
 
Phalanx Macedonia cũng có điểm yếu tương tự với các hoplite trước. Về lý thuyết thì nó không thể bị đánh bại trước mặt nhưng hai cánh thì rất yếu, khi đã dàn trận rồi thì rất khó để bỏ trận hoặc để dàn trận lại để bị tấn công từ những hướng đó. Vì vậy, phalanx gặp một đội hình không phải phalangite thì cần được bảo vệ hai bên cánh, quân trang bị nhẹ hơn hoặc ít ra cũng là cơ động hơn, kỵ binh chẳng hạn. Điều này thể hiện rõ ở [[trận Magnesia]], khi mà bộ binh hỗ trợ của [[Seleucid]] đã bị tiêu diệt thì phalanx không còn cách nào chống lại được [[bộ binh La Mã]].
 
Phalanx Macedonia cũng có thể mất sự khăng khít khi di chuyển qua những địa hình xấu, như vậy có thể tạo ra khỏangkhoảng trống giữa các khối quân, và cũng không tạo được một tiền quân chắc chắn. Trong tình thế này, [[trận Pydna]] chẳng hạn, phalanx trở nên rất dễ tiêu diệt bởi những đơn vị cơ động hơn, các [[century legion La Mã]] chẳng hạn, có thể né được giáo và tiến tới dàn trận đánh xáp lá cà với phalangites.
 
Cuối cùng, phần lớn các đội quân giống-phalanx thường thiếu hỗ trợ của những toán quân đằng sau tiền tuyến. Như vậy chỉ cần xuyên thủng tiền tuyến này hoặc tiêu diệt hai cánh quân thì bảo đảm thắng lợi (phanlanx sẽ được phòng thủ tốt hơn nếu đánh giáp chiến bằng kiếm khi bị áp sát, giống như lê dương La Mã phi giáo và chiến đấu bằng kiếm khi cần).
Dòng 90:
== Suy tàn ==
 
Sự xuống dốc của diadochi và phalanx gắn chặt với sự thăng hoa của [[Roma]] và Legion La Mã, vào khỏangkhoảng TK 3 TCN. La Mã đầu tiên bản thân họ cũng dùng đội hình phalanx, nhưng dần dần đã tiến tới chiến thuật linh hoạt hơn, với kết quả là Legion quen thuộc với chúng ta. Rome đã gần như chinh phục hoàn toàn tất cà những thành bang sau này của Macedonia, nhiều thành bang Hy Lạp và đồng minh. Những mảnh đất này đã sáp nhập vào [[Cộng Hòa La Mã]], và khi những thành bang Hy Lạp đã không còn tồn tại, thì những đội quân thường dùng đội hình phalanx cũng thế. Sau đó, quân đội được phát triển ở những mảnh đất này của La Mã cũng được trang bị và chiến đấu trong hệ thống La Mã.
 
Vẫn còn vài câu hỏi là có phải phalanx đã thực sự lỗi thời vào cuối lịch sử của nó. Trong một vài những trận đánh lớn giữa Quân Đội La Mã và phalanx HY Lạp, [[Pydna]] (168 TCN), [[Cynoscephalae]] (197 TCN) và [[Magnesia]] (190 TCN), phalanx đã chiến đấu khá tốt trước legion, ban đầu đã đẩy lui được bộ binh La Mã. Dù vậy, ở Cynoscephalae và Magnesia, thất bại trong việc phòng thủ các cánh của Phalanx đã dấn tới thất bại, còn trong trận Pydna, mất sự khăng khít trong đội hình Phalanx khi đuổi theo những lính La Mã bỏ chạy đã giúp lính La Mã đánh sâu vào đội hình phalanx, khi mà kỹ năng đánh xáp lá cà trở thành quyết định(tuy nhiên nếu như biết biến đổi phanlanx thì có thể phanlanx sẽ phát triển mạnh cả về thủ lẫn tấn công).
Dòng 105:
* Wees, Hans van, (2004) ''Greek warfare:Myths and Realities'' (Duckworth Press)
* Xenophon, (1986) Translated by George Cawkwell, ''The Persian Expedition'' (Penguin Classics)
 
 
[[Thể loại:Quân sự]]