Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Cao Văn Viên”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n chính tả, replaced: Trần Ngọc Thống → * {{chú thích sách |author=Trần Ngọc Thống, Hồ Đắc Huân, Lê Đình Thụy |year=2011 |title=Lược sử quân lực Việt Nam Cộng hoà |publisher=Hương Quê |isbn=978-0-9852-1820-1…
Dòng 24:
Ông sinh ngày [[11 tháng 12]] năm 1921 tại [[Vientiane]], [[Lào]]. Gia đình lấy chữ đầu của chữ Vientiane để đặt tên cho ông.{{fact}}
 
Thuở nhỏ, ông học tại Lào và đậu bằng Trung học Pháp. Năm 1945, ông làm công chức tại Paksé, Nam Lào. Năm 1949, ông hồi hương, nhập ngũ vào Quân đội Liên hiệp Pháp, được cử theo học khóa đào tạo sĩ quan người Việt tại trường Võ bị Cap Saint Jacques ([[Vũng Tàu]]) và tốt nghiệp thủ khoa với quân hàm [[Thiếu úy]]. Cùng tốt nghiệp với ông hai sĩ quan trẻ là [[Nguyễn Chánh Thi]] và [[Nguyễn Hữu Hạnh]].
 
Sau khi ra trường năm 1950, ông được điều về công tác tại Bộ Tổng tham mưu Quân đội Quốc gia Việt Nam vừa được thành lập. Một năm sau, năm 1951, ông được thăng cấp [[Trung úy]] và được cử theo học lớp Chỉ huy chiến thuật tại Trung tâm Huấn luyện Chiến thuật [[Hà Nội]].
 
Năm 1952, ông được bổ nhiệm làm Trưởng Phòng 2 (tình báo) Khu chiến Hưng Yên. Năm 1954, đổi sang làm Trưởng Phòng 3 (tác chiến) Khu chiến Hưng Yên. Tháng 3 năm 1955, thăng [[Thiếu tá]], Trưởng Phòng 4 (tiếp vận) Bộ Tổng tham mưu Quân đội Quốc gia Việt Nam.
 
Sau khi chính thể [[Việt Nam Cộng hòa]] được thành lập, ông được cử làm Tùy viên Quân sự Đại sứ quán Việt Nam Cộng hòa tại Washington DC, [[Hoa Kỳ]]. Năm 1957, được cử theo học lớp Chỉ huy & Tham mưu tại trường Fort Leavenworth, Kansas, Hoa Kỳ.
 
Sau khi tốt nghiệp về nước, tháng 2 năm 1958, ông được bổ nhiệm làm Tham mưu trưởng Biệt bộ Tham mưu Phủ Tổng thống. Cuối năm ông được thăng [[Trung tá]].
Dòng 39:
Đến khi cuộc [[Đảo chính Việt Nam Cộng hòa 1963|đảo chính 1963]] nổ ra, ông là một trong những số ít sĩ quan cao cấp trung thành với Tổng thống [[Ngô Đình Diệm]], kiên quyết không đứng về phe đảo chính do các tướng lĩnh [[Dương Văn Minh]], [[Trần Văn Đôn]], [[Tôn Thất Đính]], [[Mai Hữu Xuân]], [[Lê Văn Kim]] tiến hành. Vì vậy ông bị các tướng lĩnh tước quyền chỉ huy Lữ đoàn Dù. Tuy nhiên do sự can thiệp của tướng Tôn Thất Đính nên ông chỉ bị cách ly mà không rơi vào số phận bi thảm như các Đại tá [[Hồ Tấn Quyền]] và [[Lê Quang Tung]]. Sau 1 tuần lễ ông được phục hồi chức Tư lệnh Lữ đoàn Dù.
 
Sau khi tướng [[Nguyễn Khánh]] thực hiện cuộc [[Cuộc chỉnh lý tại Việt Nam Cộng hòa 1964|chỉnh lý]] để giành quyền lực, để tranh thủ sự ủng hộ của các sĩ quan trẻ, ngày [[3 tháng 3]] năm 1964, tướng Khánh đã thăng đặc cách cho ông tại mặt trận lên cấp [[Thiếu tướng]] (ông bị thương trong cuộc hành quân Quyết Thắng tại [[Hồng Ngự]]). Ông là vị Đại tá cuối cùng được thăng cấp Thiếu tướng trước khi Việt Nam Cộng hòa đặt ra quy chế phong Đại tá lên Chuẩn tướng.<ref>Lâm Vĩnh Thế, ''Nhóm tướng trẻ trong Quân lực Việt Nam Cộng hòa vào giai đoạn 1964-1965.</ref>
 
Tháng 9 năm 1964, ông được tướng Khánh cử vào chức vụ Tham mưu trưởng Liên quân tại Bộ Tổng tham mưu. Nhưng chỉ 1 tháng sau, ông chuyển sang giữ chức Tư lệnh Quân đoàn III. Đến tháng 2 năm 1965, tướng Khánh bị các tướng trẻ gạt bỏ khỏi chính quyền, ông được thăng quân hàm [[Trung tướng]] và ngày [[14 tháng 10]] ông được cử vào chức vụ Tổng Tham mưu trưởng thay Trung tướng [[Nguyễn Hữu Có]] Tổng trưởng Quốc phòng đang kiêm nhiệm.
 
Năm 1966, ông kiêm nhiệm chức vụ Tư lệnh Hải quân trong 1 tháng. Đầu năm 1967, ông kiêm nhiệm chức vụ Tổng trưởng Quốc phòng trong thời gian ngắn thay tướng [[Nguyễn Hữu Có]], cũng chính là người tiền nhiệm của ông trong vị trí Tổng tham mưu trưởng, bị bãi chức trong khi đang đi công du tại Đài Loan. Cũng vào thời điểm này, ông được thăng quân hàm [[Đại tướng]].
Dòng 50:
Trước sức ép mãnh liệt của dư luận và áp lực quân sự của quân Giải phóng, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu phải từ chức. Cũng không lâu sau đó, Tướng Cao Văn Viên cũng từ nhiệm vào ngày 27 tháng 4 năm 1975 và xin giải ngũ khi chưa có quyết định chính thức của tân Tổng thống [[Trần Văn Hương]]. Ông giao việc xử lý thường vụ lại cho [[Trung tướng]] [[Đồng Văn Khuyên]] và lên máy bay di tản sang Mỹ.
 
Sau sự kiện 1975, ông sống bình lặng tại [[Quận Arlington, Virginia|Arlington, Virginia]]. Thời gian cuối đời ông sống ở viện dưỡng lão.
 
Ông mất vào rạng sáng ngày [[22 tháng 1]] năm 2008, thọ 87 tuổi.<ref>{{chú thích báo
Dòng 76:
 
==Tham khảo==
* {{chú thích sách |author=Trần Ngọc Thống, Hồ Đắc Huân, Lê Đình Thụy |year=2011 |title=Lược sử quân lực Việt Nam Cộng hoà |publisher=Hương Quê |isbn=978-0-9852-1820-1}} {{cần số trang}}
* Lược Sử QL VNCH - Trần Ngọc Thống & Hồ Đắc huân 2011.
 
{{Đại tướng Quân lực Việt Nam Cộng hòa}}
 
{{Thời gian sống|sinh=1921|mất=2008}}
 
[[Thể loại:Đại tướng Việt Nam Cộng hòa]]