Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Lưu Nghĩa Khang”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 1:
'''Lưu Nghĩa Khang''' ([[chữ Hán]]: 刘义康, [[409]] – [[451]]), tên lúc nhỏ là '''Xa Tử''', người Tuy Lý, Bành Thành <ref>Nay là [[Đồng Sơn]], [[Giang Tô]]</ref>, là [[tể tướng]], hoàng thân [[nhà Lưu Tống]] trong [[lịch sử Trung Quốc]].
 
==Thiếu thời==
Dòng 6:
Năm 12 tuổi, Nghĩa Khang được trừ chức Đốc Dự, Ti, Ung, Tịnh 4 châu chư quân sự, Quan quân tướng quân, Dự Châu thứ sử [[nhà Đông Tấn]]. Khi ấy Lưu Dụ từ Thọ Dương vào triều, sắp soán ngôi của họ Tư Mã (420), lấy Nghĩa Khang thay mình trấn thủ Thọ Dương. Sau đó được lãnh Ti Châu thứ sử, tiến làm Đốc Từ Châu chi Chung Li, Kinh Châu chi Nghĩa Dương chư quân sự.
 
Sau đó ít lâu Lưu Dụ giành ngôi nhà Tấn, phong ông làm Bành Thành vương, thực ấp 3000 hộ, tiến hiệu Hữu tướng quân. Năm [[421]], ông được dời làm Giám Nam Dự, Dự, Ti, Ung, Tịnh 5 châu chư quân sự, Nam Dự Châu thứ sử, tướng quân như cũ. Năm 422, ông được thăng Sứ trì tiết, đô đốc Nam Từ, Duyện 2 châu, Dương Châu chi Tấn Lăng chư quân sự, Nam Từ Châu thứ sử, tướng quân như cũ.
 
==Khởi nghiệp==
Dòng 14:
 
==Vào triều phụ chính==
Năm thứ 6 ([[429)]], tư đồ [[Vương Hoằng (Lưu Tống)|Vương Hoằng]] dâng biểu xin cho Nghĩa Khang vào triều nắm chánh sự, nên đươc chinh làm Thị trung, Đô đốc Dương, Nam Từ, Duyện 3 châu chư quân sự, Tư đồ, Lục thượng thư sự, lĩnh Bình bắc tướng quân, Nam Từ Châu thứ sử, Trì tiết như cũ. Hoằng và Nghĩa Khang đều được cắt đặt phụ tá và nắm binh quyền, nhưng Hoằng nhiều bệnh, hầu như không tham gia triều chánh, mọi việc trong ngoài đều do Nghĩa Khang quyết đoán. Thái tử chiêm sự [[Lưu Trạm]] có tài trị quốc, Nghĩa Khang khi xưa ở Dự Châu, lấy ông ta làm Trưởng sử, rất tin cậy ông ta, ủy nhiệm trọng trách; Trạm đối với mọi người, mọi việc đều dò xét mà nắm rõ, giúp Nghĩa Khang mấy lần đổi nhiệm sở luôn được tiếng là giỏi cai trị, xa gần ca ngợi.
 
Năm 432, Vương Hoằng mất, Nghĩa Khang lại được lĩnh Dương Châu thứ sử. Năm ấy, vì mẹ mất nên chịu giải chức Thị trung, không nhận Ban kiếm. Năm [[435]], ông lại được lĩnh Thái tử thái phó, nhận lại chức Thị trung, Ban kiếm.
 
==Quyền nghiêng triều đình==
Dòng 25:
Văn đế có chứng hư lao<ref>Trong [[Đông y]], Hư lao là tình trạng thường xuyên mệt mỏi, không có sức làm việc; đồng thời đổ mồ hôi quá mức, nhức đầu, chóng mặt, bàn chân hay bị lạnh</ref>, nằm bệnh nhiều năm, mỗi khi có ý muốn làm gì, thì trong tim đau đớn, tưởng sắp chết đến nơi. Nghĩa Khang hết lòng hầu hạ, các thứ thuốc thang ăn uống, không nếm qua thì không dâng lên; nhiều đêm không ngủ, đến lúc trời sáng còn chưa cởi áo; đồng thời mọi việc trong cung ngoài triều, đều do ông chuyên quyền quyết đoán.
 
Năm [[439]], ông được tiến vị Đại tướng quân, lĩnh Tư đồ, cho phép vời triệu duyện thuộc.
 
==Vua tôi hiềm khích==
Dòng 36:
Nghĩa Khang muốn lấy Lưu Bân làm Đan Dương doãn, tìm dịp kể với Văn đế gia cảnh nghèo nàn của Bân, Văn đế biết ý, chặn lời ông rằng: “Lấy hắn nắm Ngô Quận.” Về sau Cối Kê thái thú Dương Huyền Bảo xin về triều, Nghĩa Khang lại muốn lấy Bân thay thế, nên hỏi Văn đế: “Dương Huyền Bảo muốn về, không rõ nên lấy ai nắm Cối Kê?” Văn đế chưa nghĩ ra, thảng thốt nói: “Ta muốn dùng Vương Hồng.”
 
Từ mùa thu năm [[439]], Văn đế không ghé Đông phủ nữa.
 
==Rời khỏi triều đình==
Văn đế cho rằng đôi bên đã sinh hiềm khích, sợ gây vạ lớn, nên quyết định ra tay trước. Tháng 10 ÂL năm [[440]], Văn đế bắt Lưu Trạm giao cho Đình úy, định tội chết, lại khép tội chết bọn Lưu Bân cùng Đại tướng quân Lục sự tham quân Lưu Kính Văn, Tặc tào tham quân Khổng Thiệu Tú, Trung binh tham quân Hình Hoài Minh, Chủ bộ Khổng Dận Tú, Đan Dương thừa Khổng Văn Tú, Tư không tòng sự trung lang Tư Mã Lượng, Ô Trình lệnh Thịnh Đàm Thái. Đày Thượng thư khố bộ lang Hà Mặc Tử, Dư Diêu lệnh Hàn Cảnh Chi, Vĩnh Hưng lệnh Nhan Diêu Chi, em Trạm là Hoàng môn thị lang Lưu tố, em Bân là Cấp sự trung Lưu Ôn đi Quảng Châu; bị phế quan Vương Lý cho về nhà. Dận Tú ban đầu làm Thư ký mà được tín nhiệm, dần tham gia cơ mật; Văn Tú, Thiệu Tú đều là anh trai của ông ta. Tư Mã Lượng là cháu bên ngoại của họ Khổng, cũng do Dận Tú tiến cử. Hoài Minh, Đàm Thái do Nghĩa Khang cất nhắc, Mặc Tử, Cảnh Chi, Diêu Chi được Lưu Trạm tiến cử.
 
Hôm sau Nghĩa Khang vào hầu, bị giữ lại ở Trung thư tỉnh, đêm ấy bọn Lưu Trạm bị bắt giữ. Thanh Châu thứ sử Đỗ Ký đưa quân giữ trong điện để phòng bị biến cố. Văn đế tuyên chỉ thông cáo tội trạng của bọn Trạm, Nghĩa Khang dâng biểu từ chức, được đổi thụ Đô đốc Giang Châu chư quân sự, Giang Châu thứ sử, Trì tiết, Thị trung, tướng quân như cũ, ra trấn Dự Chương.
Dòng 52:
Cối Kê trưởng công chúa [[Lưu Hưng Đệ]] là con lớn nhất của Vũ đế, rất được Văn đế kính yêu. Sau khi Nghĩa Khang đi về nam đã lâu, đế cùng công chúa ăn tiệc rất vui, công chúa đột ngột quỳ lạy dập đầu, nước mắt ràn rụa. Đế không hiểu vì sao, tự tay đỡ dậy, công chúa nói: “Xa Tử già rồi, ắt không thể gặp lại bệ hạ, nay đặc biệt xin giữ lại sanh mệnh của nó.” Đế cũng rơi nước mắt, trỏ Tương Sơn mà nói: “Xin chị đừng lo. Nay thề có Sơ Ninh Lăng làm chứng.” (lăng mộ của Vũ đế) Đế lập tức niêm phong chỗ rượu còn lại trong tiệc, gởi cho Nghĩa Khang, kèm thư rằng: “Chị Cối Kê ăn tiệc nhớ em, nay niêm phong chỗ rượu còn lại gởi cho.”
 
Năm [[445]], [[Từ Trạm Chi]] (con của Cối Kê trưởng công chúa) cáo giác bọn [[Phạm Diệp]], Khổng Hy Tiên mưu phản hòng phù lập Nghĩa Khang, Văn đế tha tội chết, miễn ông cùng các con trai/gái làm thứ nhân, đày đi quận An Thành; lấy Ninh sóc tướng quân Thẩm Thiệu làm An Thành công tướng lĩnh binh phòng thủ. Nghĩa Khang ở An Thành đọc cố sự của Hoài Nam lệ vương [[Lưu Trường]] [[nhà Hán]], bỏ sách than rằng: “Đời trước đã có việc thế này, ta đắc tội là phải.”
 
Năm [[447]], người Dự Chương là Hồ Đản Thế, Ngô Bình lệnh (tiền nhiệm) Viên Uẩn khởi nghĩa, giết Dự Chương thái thú Hoàn Long, Nam Xương lệnh Gia Cát Trí Chi, tập hợp nghĩa quân chiếm quận, muốn ủng lập Nghĩa Khang. Thái úy Lục thượng thư Giang Hạ vương [[Lưu Nghĩa Cung]] cầm đầu triều thần, tâu rằng Nghĩa Khang có lời oán giận, khiến lòng người nhiễu động, kiến nghị đày ông đi Quảng Châu. Văn đế đồng ý, muốn lấy Thẩm Thiệu tiếp tục canh giữ Nghĩa Khang ở Quảng Châu, nhưng Thiệu lại bệnh mất, nên ông vẫn ở lại quận An Thành.
 
Quân [[Bắc Ngụy]] xâm phạm Qua Bộ, triều đình Lưu Tống kinh động, Văn đế lo rằng lại có người mượn danh nghĩa của Nghĩa Khang nổi dậy, Vũ Lăng vương [[Lưu Tuấn]] khi ấy trấn thủ Bành Thành, nhiều lần khuyên cha ra tay; Thái tử [[Lưu Thiệu (Lưu Tống)|Lưu Thiệu]] cùng Thượng thư tả bộ xạ Hà Thượng Chi cũng nói như vậy. Tháng giêng ÂL năm [[451]], Văn đế sai Trung thư xá nhân Nghiêm Long đem thuốc ban chết. Nghĩa Khang lấy cớ thờ Phật, không thể tự sát, nên chịu trùm đầu mà chết ngạt, hưởng thọ 43 tuổi, được an táng theo nghi lễ dành cho hầu tước.
 
==Dị sự==