Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Bùi Văn Nhu”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 7:
 
==Phục vụ ngành Cảnh sát Quốc gia Việt Nam==
Năm 1950, Phủ Cao ủy Pháp tại Đông Dương dần chuyển giao các bộ phận phụ trách về an ninh và cảnh sát cho Ty Giám đốc Cảnh sát và Mật thám Quốc gia (sau đổi thành Nha Tổng Giám đốc Cảnh sát và Công an Quốc gia<ref>Nghị định Số 59/BNV ngày 24/4/1950</ref>) thuộc Bộ Nội vụ Quốc gia Việt Nam. Phần lớn nhân viên người Việt đang phục vụ trong Sở Liêm phóng Đông Dương được thăng ngạch và chuyển sang Ty Giám đốc Cảnh sát và Mật thám Quốc gia, đặt dưới quyền của Tổng kiểm tra [[Mai Hữu Xuân]]<ref>Thanh Kim Pham, '' Lịch Sử Ngành Cảnh Sát Quốc Gia VNCH''.</ref>. Ông cũng được thăng lên ngạch Biên tập viên và đến năm 1952, làm Trưởng Phân cuộc Nhứt thuộc Nha Công an Nam phần, ngạch Biên tập viên hạng 4. Một thượng cấp của ông thời bấy giờ là KiểmQuận tratrưởng [[Trần Bá Thành]], Phó giám đốc Nha Công an Nam phần.
 
Năm 1954, ông được thăng ngạch Quận trưởng hạng 5, vẫn tiếp tục giữ chức Trưởng Phân cuộc Nhứt thuộc Nha Công an Nam phần, qua suốt cả thời kỳ [[Lại Văn Sang]]. Sau khi Bình Xuyên bị đánh bật khỏi Sài Gòn, ông vẫn được giữ lại chức vụ cũ, dưới quyền thượng cấp cũ là Trung tá giả định [[Trần Bá Thành]], lúc này đã giữ chức Giám đốc Nha Công an Nam phần. Một thuộc cấp thân tín của Giám đốc Trần Bá Thành là Thiếu úy giả định [[Nguyễn Văn Khiêm]], một tình báo viên quan trọng của [[Việt Nam Dân chủ Cộng hòa]], được cử làm phụ tá Trưởng Phân cuộc Nhứt Bùi Văn Nhu.<ref>[[Nguyễn Văn Khiêm]], ''Giữa hai trận tuyến''. NCB Thanh niên, 2014. tr. 98.</ref><ref>[[Nguyễn Văn Khiêm]], ''Giữa hai trận tuyến''. NCB Thanh niên, 2014. tr. 110.</ref>
 
==Thời kỳ Đệ nhất Cộng hoàhòa==
Sau khi chính thể Việt Nam Cộng hòa chính thức được thành lập năm 1956, ông được thăng ngạch Quận trưởng hạng 4 tại nhiệm. Tháng 12 cùng năm, ông được giữ chức Trưởng Ty Cảnh sát Đặc biệt. Qua năm 1957, ông được cử đi Công du quan sát ngành Cảnh sát của Hồng Kông. Năm 1958, ông được cử đi công du hội thảo về hoạt động cảnh sát tại Singapore. Tháng 1, thăng Quận trưởng hạng 3. Tháng 8 cùng năm, Nha Công an Nam phần giải thể, ông được chuyển sang giữ chức Phó sở, rồi Chánh sở Trung ương Tình báo (tiền thân của Phủ Ðặc ủy Trung ương Tình báo).
 
Năm 1956: Sau khi Chính thể Đệ nhất Cộng hoà hình thành được 1 năm1960, ông được thăng ngạch Quận trưởng hạng 42 tại nhiệm. ThángQua 12năm cùng năm1961, ông được giữnhận chức Trưởngvụ TyChánh Cảnhsở sátChuyên Đặcmôn biệt.thuộc QuaTổng nămnha 1957,Cảnh ôngSát đượcQuốc cửgia. điTháng Công7 ducùng quannăm, sátông ngànhthăng Cảnhcấp sátKiểm củatra Hồnghạng Kông3 tại nhiệm.
==Thời kỳ Đệ nhị Cộng hoàhòa==
Năm 1963: Sau biến cố đảo chính [[1/ tháng 11]] năm 1963, tướng [[Mai Hữu Xuân]] kiêm chức Tổng giám đốc, ông được giữ chức Chánh sở Nội Vụ thuộc Tổng nha Cảnh sát Quốc gia.
 
Năm 1958:1964, Ôngông được cửthăng đicấp côngKiểm dutra hộihạng thảo2 vềtại hoạtnhiệm. độngTrung Cảnhtuần sáttháng tại6 Singapore.năm Tháng 1này, thăngông Quậngiữ trưởngchức hạngGiám đốc Trung tâm Huấn luyện Cảnh sát Quốc 3gia. Tháng 89 cùng năm, ông được giữ chức ChánhPhụ sở TrungKhối Cảnh sát Đặc biệt trực ươngthuộc TìnhTổng báonha.
 
Năm 1965:, Ôngông giữ chức Chánh sở Nghiên cứu thuộc Tổng nha. Qua năm 1966:, ông được thăng ngạch Quân trưởng hạng 1, đồng thời cùng ngày ông được thăng đặc cách ngạch Quận trưởng Thượng hạng, hạng 4. Trung tuần tháng 4 cùng năm, giữ chức Trưởng khối Cảnh sát Đặc biệt.
Năm 1960: Ông được thăng ngạch Quận trưởng hạng 2 tại nhiệm. Qua năm 1961, ông nhận chức vụ Chánh sở Chuyên môn thuộc Tổng nha Cảnh Sát Quốc gia. Tháng 7 cùng năm, ông thăng cấp Kiểm tra hạng 3 tại nhiệm.
==Thời kỳ Đệ nhị Cộng hoà==
Năm 1963: Sau biến cố đảo chính 1/11, ông được giữ chức Chánh sở Nội Vụ thuộc Tổng nha Cảnh sát Quốc gia.
 
Năm 1967: Cuối tháng 7, năm 1967, ông được cử vào chức vụ Phó Tổng Giám đốc Tổng nha Cảnh sát Quốc gia. Qua năm 1968, ông được thăng ngạch Quân trưởng Thượng hạng, hạng 3. Năm 1970, được thăng ngạch Quân trưởng Thượng hạng, hạng 2. Cùng năm, ông được cử đi du hành quan sát tổ chức Cảnh sát Hoa Kỳ và Anh Quốc.
Năm 1964: Ông được thăng cấp Kiểm tra hạng 2 tại nhiệm. Trung tuần tháng 6 năm này, ông giữ chức Giám đốc Trung tâm Huấn luyện Cảnh sát Quốc gia. Tháng 9 cùng năm, giữ chức Phụ tá Khối Cảnh sát Đặc biệt trực thuộc Tổng nha.
 
Năm 1971, trong cuộc cải tổ ngành Cảnh sát Quốc gia, Nha Tổng giám đốc thay bằng Bộ tư lệnh<ref>Sắc lệnh số 17A/TT/SL ngày 1/3/1971</ref>. Ông được chuyển thành Tư lệnh phó Cảnh sát Quốc gia và là nhân viên cảnh sát chuyên nghiệp cao cấp nhất được giữ lại (bấy giờ nhiều sĩ quan quân đội được điều sang để nắm các chức vụ chủ chốt của ngành cảnh sát). Cuối tháng 6, ông được đồng hóa chuyển sang cấp bậc [[Đại tá]] Cảnh sát, giữ chức Trưởng phái đoàn tham dự Hội đồng Interpol tại Canada. Năm 1972, được cử làm Trưởng đoàn tham dự Hội đồng Interpol Frankfurt, Đức. Năm 1973, Trưởng đoàn tham dự Hội đồng Interpol tại Vienne, Áo. Đầu tháng 2 năm 1975, ông được vinh thăng [[Chuẩn tướng]] Cảnh sát tại nhiệm.
Năm 1965: Ông giữ chức Chánh sở Nghiên cứu thuộc Tổng nha. Qua năm 1966:, ông được thăng ngạch Quân trưởng hạng 1, đồng thời cùng ngày ông được thăng đặc cách ngạch Quận trưởng Thượng hạng, hạng 4. Trung tuần tháng 4 cùng năm, giữ chức Trưởng khối Cảnh sát Đặc biệt.
 
==Lưu đày cuối đời==
Năm 1967: Cuối tháng 7, ông được cử vào chức vụ Phó Tổng Giám đốc Tổng nha Cảnh sát Quốc gia. Qua năm 1968, ông được thăng ngạch Quân trưởng Thượng hạng, hạng 3.
Trong những ngày cuối cùng của chính thể Việt Nam Cộng hòa, ông là chỉ huy cảnh sát cao cấp nhất còn ở lại. Sau ngày [[30 tháng 4]] năm 1975, ông bị chính quyền mới đưa đi cải tạo lưu đày. Ông qua đời ngày [[15 tháng 3]] năm 1984 tại trại giam Nam Hà, Phủ Lý, Hà Nam Ninh, hưởng thọ 64 tuổi.
 
==Nhận định==
Năm 1970: Ông được thăng ngạch Quân trưởng Thượng hạng, hạng 2. Cùng năm, ông được cử đi du hành quan sát tổ chức Cảnh sát Hoa Kỳ và Anh Quốc.
{{cquote|
 
:''Nhu là một công chức kỳ cựu, từ ngạch Biên tập viên lên Quận trưởng, biết cách làm việc theo thủ tục hành chính của chế độ cũ, có uy tín trong ngành công an cảnh sát và trong ngạch hành chính.<ref>[[Nguyễn Văn Khiêm]], ''Giữa hai trận tuyến''. NCB Thanh niên, 2014. tr. 114.</ref>}}
Năm 1971: Cuối tháng 6, ông được đồng hoá chuyển sang cấp bậc [[Đại Tá]] Cảnh sát Quốc gia. Giữ chức Trưởng phái đoàn tham dự Hội đồng Interpol tại Canada.
 
Năm 1972: Ông được thăng chức Tư lệnh Phó Cảnh sát Quốc gia. Đồng thời được cử làm Trưởng đoàn tham dự Hội đồng Interpol Frankfurt, Đức quốc.
 
Năm 1973: Trưởng đoàn tham dự Hội đồng Interpol tại Vienne, Áo quốc.
==1975==
 
Đầu tháng 2, ông được vinh thăng [[Chuẩn Tướng]] Cảnh sát Quốc gia tại nhiệm.
 
Sau ngày/4, ở tù cải tạo. Từ trần ngày 15/3/1984 tại trại giam Nam Hà, Phủ Lý, Hà Nam Ninh. Hưởng thọ 64 tuổi.
==Gia đình==
Ông lập gia đình với bà Triệu Thị Hương. Ông bà có với nhau 9 người con. Ngoài ra, ông còn có một người vợ bé không rõ tên.<ref>[[Nguyễn Văn Khiêm]], ''Giữa hai trận tuyến''. NCB Thanh niên, 2014. tr. 117.</ref>
 
*Phu nhân: Bà Triệu Thị Hương ''(Ông bà có 9 người con)
==Chú thích==
{{Tham khảo|2}}