Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Thoát Hoan”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Eruruu (thảo luận | đóng góp)
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 1:
{{thông tin nhân vật hoàng gia}}
'''Trấn Nam vương Thoát Hoan''' ([[chữ Hán]]: 镇南王脱欢/鎮南王脫歡; ? - [[1301?]]) là một [[hoàng tử]] và là tướng [[nhà Nguyên]] trong [[lịch sử Trung Quốc]]. Ông được biết đến trong [[lịch sử Việt Nam]] qua 2 lần mang quân sang đánh nước [[Đại Việt]] cuối [[thế kỷ 13]] thời [[nhà Trần]] nhưng đều bị thất bại.
 
== Tại chiến trường Đại Việt ==
{{Xem thêm|Chiến tranh Nguyên Mông – Đại Việt}}
===Năm 1284-1285===
Thoát Hoan, phiên âm [[tiếng Mông Cổ]]''Toghan / Тогоон'', là con trai thứ 9 của Nguyên Thế Tổ [[Hốt Tất Liệt]], không rõ mẹ là ai.
 
Năm [[1284]], Nguyên Thế Tổ chuẩn bị đánh [[Đại Việt]], phong cho Thoát Hoan làm '''Trấn Nam vương''' (镇南王) vào ngày [[3 tháng 6]], sai đóng ở [[Ngạc châu]]<ref>[http://zh.wikisource.org/wiki/%E5%85%83%E5%8F%B2/%E5%8D%B7013 Nguyên sử, quyển 13, bản kỉ 13: Thế tổ đệ thập], nguyên bản: 六月壬子...日月交食、歷法。....。甲寅,詔封皇子脫歡為鎮南王,賜塗金銀印,駐鄂州。 (lục nguyệt Nhâm Tí...nhật nguyệt giao thực, lịch pháp。....。Giáp Dần, chiếu phong hoàng tử Thoát Hoan vi Trấn Nam vương,tứ đồ kim ngân ấn,trú Ngạc Châu。)</ref>. Trước đó từ năm [[1282]], Nguyên Thế Tổ đã sai tướng [[Toa Đô]] mang quân theo đường biển đi đánh [[Chiêm Thành]], nhưng tới lúc đó vẫn chưa chiếm được nước này.
 
[[Tháng 7]] năm đó, ông được lệnh đi đánh [[Chiêm Thành]] qua đường [[Đại Việt]]. Vua Đại Việt là [[Trần Thánh Tông]] không đồng ý cho mượn đường.
 
[[Tháng 12]] năm [[1284]], Thoát Hoan dẫn các tướng [[Ariq Qaya]], [[Ô Mã Nhi]], [[Lý Hằng]], [[Koncak]], [[Bolqadar]], [[Satartai]], [[Mangqudai]], [[Naqai]], [[Mangqudai]], [[Lý Bang Hiến]], [[Tôn Hựu]], [[Tôn Đức Lâm]], [[Lưu Thế Anh]], [[Lưu Khuê]], [[Nghê Nhuận]] đi đánh [[Đại Việt]].
 
Quân Nguyên chia làm 3 đạo tiến đánh [[Đại Việt]]. Thoát Hoan và Ariq Qaya chỉ huy đạo chủ lực từ [[Ninh Minh]] tiến vào Lộc Châu (nay là [[Lộc Bình]], [[Lạng Sơn]])<ref>Hai đạo quân kia do Nasirud Din từ Vân Nam và Toa Đô từ Chiêm Thành lên</ref>.
 
Ngày [[27 tháng 1]] năm [[1285 (dương lịch)]], ông chia cánh quân của mình làm 2 mũi tiến quân, một do Bolqadar chỉ huy theo đường Khâu Ôn (nay là [[Ôn Châu]], Lạng Sơn), một do Satartai và Lý Bang Hiến chỉ huy đi theo đường núi Cấp Lĩnh (tức là từ Lộc Bình đi [[Sơn Động]] ngày nay).
 
Đại quân của Thoát Hoan đi sau mũi thứ hai của Satartai và Lý Bang Hiến.<ref>Hà Văn Tấn và Phạm Thị Tâm (1972), trang 204-205.</ref>
Chống lại đạo quân thứ nhất này của quân Nguyên là lực lượng chủ lực của quân Trần do đích thân [[Trần Hưng Đạo|Trần Quốc Tuấn]] chỉ huy. Sau một số trận đánh, quân Trần phải rút lui khỏi [[Vạn Kiếp]], [[Phả Lại]], [[Bình Than]] về dàn trận bên bờ [[sông Hồng]] gần thành [[Thăng Long]]. Quân Nguyên tiến theo đường bộ về Thăng Long.<ref>Hà Văn Tấn và Phạm Thị Tâm (1972), trang 212-216.</ref>.
 
SauQuân mộtNguyên sốtừ trận[[Vạn đánh,Kiếp]]<ref>Phả quânLại</ref> Trầnđi phảitheo rútđường luiqua khỏi[[Vũ Ninh]] <ref>[[VạnQuế Kiếp]], [[PhảBắc LạiNinh]]</ref>, [[BìnhĐông ThanNgạn]] về<ref>[[Tiên dànDu]], trận[[Từ bên bờSơn]], [[sôngBắc HồngNinh]]</ref>. gần thànhĐến [[Thăngsông LongĐuống]], các đơn vị quân Nguyên và quân Trần giáp chiến. Quân Trần bị thiệt hại nặng, quân Nguyên tiếnlấy theođược đườngnhiều bộthuyền. Thoát Hoan cho dựng [[cầu phao]] để đưa đại quân vượt [[sông Đuống]] tiến về Thăngkinh Longthành của [[Đại Việt]].<ref>Hà Văn Tấn và Phạm Thị Tâm (1972), trang 212216-216217.</ref>.
 
Ngày [[18 tháng 2]], hai bên đại chiến bên bờ [[sông Hồng]]. Quân Trần xuôi sông Hồng rút lui<ref>Nguyên sử, quyển 209.</ref>.
Quân Nguyên từ [[Vạn Kiếp]]<ref>Phả Lại</ref> đi theo đường qua [[Vũ Ninh]] <ref>[[Quế Võ]], [[Bắc Ninh]]</ref>, [[Đông Ngạn]] <ref>[[Tiên Du]], [[Từ Sơn]], [[Bắc Ninh]]</ref>. Đến [[sông Đuống]], các đơn vị quân Nguyên và quân Trần giáp chiến. Quân Trần bị thiệt hại nặng, quân Nguyên lấy được nhiều thuyền.
Quân Nguyên tiến đến đóng dưới chân thành một hôm rồi mới vào thành, chỉ thấy ''"cung thất nhẵn không"''. Thoát Hoan khao quân trong cung thành, nhưng rồi lại sớm rút quân khỏi thành, trở lại trại đã lập bên bờ Bắc [[sông Hồng]]<ref>Hà Văn Tấn và Phạm Thị Tâm (1972), trang 217-222.</ref>.
Vừa đợi [[Toa Đô]] từ phía Nam tiến lên, Thoát Hoan vừa phái Koncak, Mangqudai, Bolqadar theo đường bộ, [[Lý Hằng]], [[Ô Mã Nhi]] theo đường thủy đuổi theo vuahoàng tộc họ Trần, nhưng không thành công.
 
Thoát Hoan tuy chiếm được kinh thành Đại Việt nhưng gặp phải kế vườn không nhà trống của quân Trần khiến quân Nguyên bị thiếu lương thực. Để phòng thủ mặt phía Nam của thành Thăng Long, Thoát Hoan dựng 2 căn cứ liền kề nhau ở hai bờ sông Hồng, một ở [[Hàm Tử Quan]] (cửa Hàm Tử - nay ở Khoái Châu, Hưng Yên) và một ở [[Chương Dương Độ]] (bến Chương Dương - nay ở Thượng Phúc, thuộc [[Thường Tín]], [[Hà Nội]]). Tháng 5, quân [[Trần Quang Khải]] bắt đầu phản công.
Thoát Hoan cho dựng [[cầu phao]] để đưa đại quân vượt [[sông Đuống]] tiến về kinh thành của [[Đại Việt]].<ref>Hà Văn Tấn và Phạm Thị Tâm (1972), trang 216-217.</ref>
 
Ngày 18 tháng 2, hai bên đại chiến bên bờ [[sông Hồng]]. Quân Trần xuôi sông Hồng rút lui<ref>Nguyên sử, quyển 209.</ref>.
Quân Nguyên tiến đến đóng dưới chân thành một hôm rồi mới vào thành, chỉ thấy "cung thất nhẵn không". Thoát Hoan khao quân trong cung thành, nhưng rồi lại sớm rút quân khỏi thành, trở lại trại đã lập bên bờ Bắc [[sông Hồng]]<ref>Hà Văn Tấn và Phạm Thị Tâm (1972), trang 217-222.</ref>.
Vừa đợi [[Toa Đô]] từ phía Nam tiến lên, Thoát Hoan vừa phái Koncak, Mangqudai, Bolqadar theo đường bộ, [[Lý Hằng]], [[Ô Mã Nhi]] theo đường thủy đuổi theo vua Trần, nhưng không thành công.
 
Thoát Hoan tuy chiếm được kinh thành Đại Việt nhưng gặp phải kế vườn không nhà trống của quân Trần khiến quân Nguyên bị thiếu lương thực.
 
Để phòng thủ mặt phía Nam của thành Thăng Long, Thoát Hoan dựng 2 căn cứ liền kề nhau ở hai bờ sông Hồng, một ở [[Hàm Tử Quan]] (cửa Hàm Tử - nay ở Khoái Châu, Hưng Yên) và một ở [[Chương Dương Độ]] (bến Chương Dương - nay ở Thượng Phúc, thuộc [[Thường Tín]], [[Hà Nội]]). Tháng 5, quân [[Trần Quang Khải]] bắt đầu phản công.
 
Trước sức tấn công mạnh mẽ và bền bỉ của quân Trần, Thoát Hoan phải rút chạy khỏi thành Thăng Long về đóng ở bờ Bắc sông Hồng (khoảng [[Gia Lâm]] ngày nay)<ref>Hà Văn Tấn và Phạm Thị Tâm (1972), trang 251-253.</ref>.
 
Tướng [[Toa Đô]] từ phía nam tiến lên, muốn liên lạc với Thoát Hoan nhưng bị quân Trần chặn đánh. Sau khi thua trận ở Hàm Tử Quan, Toa Đô vẫn không biết rằng Thoát Hoan đã tháo chạy. Cánh quân Toa Đô đóng ở [[sông Thiên Mạc]]<ref>Khúc sông Hồng chảy qua Khoái Châu</ref> và tìm cách liên lạc với ông. Được ít ngày, Toa Đô biết tin quân Thoát Hoan đã thất bại và rút chạy, bèn lui về Tây Kết và sau bị tử trận.
Cánh quân Toa Đô đóng ở [[sông Thiên Mạc]]<ref>Khúc sông Hồng chảy qua Khoái Châu</ref> và tìm cách liên lạc với ông.
Được ít ngày, Toa Đô biết tin quân Thoát Hoan đã thất bại và rút chạy, bèn lui về Tây Kết và sau bị tử trận.
 
Ngày [[10 tháng 6]] năm [[1285]], tướng Đại Việt là [[Trần Hưng Đạo|Trần Quốc Tuấn]] và [[Trần Tung]] dẫn hơn 2 vạn quân tấn công Thoát Hoan ở bờ Bắc sông Hồng. Thoát Hoan cử [[Lưu Thế Anh]] dẫn quân ra đối phó, nhưng đại bại. Quân Nguyên rút chạy về phía Bắc.<ref>Hà Văn Tấn và Phạm Thị Tâm (1972), trang 254.</ref>
 
Khi rút chạy đến sông Như Nguyệt ([[sông Cầu]]), quân Nguyên bị đơn vị của [[Trần Quốc Toản]] chặn đánh. Quân Nguyên thua, không sang sông được, phải chạy về phía [[Vạn Kiếp]]<ref>Hà Văn Tấn và Phạm Thị Tâm (1972), trang 254-255.</ref>. Chạy đến [[sông Sách]] (tức đoạn sông Thương chảy qua Vạn Kiếp), quân Nguyên bắc cầu phao định vượt sông, nhưng bị quân Trần do Trần Quốc Tuấn chỉ huy ập vào đánh. Quân Nguyên xô nhau chạy, cầu phao đứt, nhiều binh sĩ bị chết đuối.<ref>Hà Văn Tấn và Phạm Thị Tâm (1972), trang 255-256.</ref>
 
Chạy đến [[sông Sách]] (tức đoạn sông Thương chảy qua Vạn Kiếp), quân Nguyên bắc cầu phao định vượt sông, nhưng bị quân Trần do Trần Quốc Tuấn chỉ huy ập vào đánh. Quân Nguyên xô nhau chạy, cầu phao đứt, nhiều binh sĩ bị chết đuối.<ref>Hà Văn Tấn và Phạm Thị Tâm (1972), trang 255-256.</ref>
 
Sau khi vượt qua sông Sách, quân Nguyên chạy về hướng [[Tư Minh]]. [[Lý Hằng]] được cử chặn hậu, đề phòng quân Trần truy kích. Đến [[Vĩnh Bình]], quân Nguyên lại bị quân Trần do Trần Quốc Hiến (Trần Quốc Nghiễn) chỉ huy chặn đánh. Tướng Lý Hằng bị trúng tên độc tử trận.
Hàng 50 ⟶ 40:
 
===Năm 1287-1288===
Từ [[tháng 3]] năm [[1286]], Trấn Nam vương Thoát Hoan đã được lệnh đi đánh Đại Việt một lần nữa. Sau một thời gian chuẩn bị, cuối năm 1287, mượn tiếng đưa An Nam quốc vương [[Trần Ích Tắc]] về nước, đại quân Thoát Hoan lên đường. Đi cùng Thoát Hoan lần này có các tướng [[Ariq Qaya]], [[Ô Mã Nhi]], [[Ayuruychi]] (Áo Lỗ Xích), [[Phàn Tiếp]], [[Tích Lệ Cơ]], [[Yiymis]] (Diệc Hắc Mê Thất),[[Ariq Qusun]] (A Lý Quy Thuận),[[Abaci]] (A Bát Xích),[[A Lý|Ali]] (A Lý), [[Trình Bằng Phi]], [[Aruq]] (Ái Lỗ), [[Trương Ngọc]], [[Lưu Khuê]], [[Siktur]] (Tích Đô Nhi), [[Trương Văn Hổ]], [[Phí Củng Thìn]], [[Đào Đại Minh]], [[Trần Trọng Đạt]], [[Tạ Hữu Khuê]], [[Bồ Tý Thành]], [[Lê Tắc]].
Đi cùng Thoát Hoan lần này có các tướng [[Ariq Qaya]], [[Ô Mã Nhi]], [[Ayuruychi]] (Áo Lỗ Xích), [[Phàn Tiếp]], [[Tích Lệ Cơ]], [[Yiymis]] (Diệc Hắc Mê Thất),[[Ariq Qusun]] (A Lý Quy Thuận),[[Abaci]] (A Bát Xích),[[A Lý|Ali]] (A Lý), [[Trình Bằng Phi]], [[Aruq]] (Ái Lỗ), [[Trương Ngọc]], [[Lưu Khuê]], [[Siktur]] (Tích Đô Nhi), [[Trương Văn Hổ]], [[Phí Củng Thìn]], [[Đào Đại Minh]], [[Trần Trọng Đạt]], [[Tạ Hữu Khuê]], [[Bồ Tý Thành]], [[Lê Tắc]].
 
Ngày [[3 tháng 9 âm lịch]], Thoát Hoan khởi binh từ đất Ngạc tiến về phía nam. Quân Nguyên chia làm 3 cánh, trong đó Thoát Hoan chỉ huy đạo quân chủ lực đi đường [[châu Khâm]], [[châu Liêm]] cùng Trình Bằng Phi, Áo Lỗ Xích, Ayuruyci, dẫn theo Trần Ích Tắc tiến vào biên giới đông bắc.
 
Thoát Hoan và [[Ayuruyci]] tập kết quân Nguyên tại Tư Minh vào ngày 18 tháng 12 năm 1287 và bắt đầu vào lãnh thổ Đại Việt ngày 25 tháng 12 năm 1287.
Tiến tới Lộc Châu (Lộc Bình, [[Lạng Sơn]]) ngày 29 tháng 12, Thoát Hoan chia quân làm 2 mũi, một mũi do Trình Bằng Phi và Bolqadar chỉ huy đi từ Vĩnh Bình tới Chi Lăng và một mũi nữa gồm số quân còn lại đi từ Lộc Bình tới Sơn Động. Các mũi quân của Thoát Hoan vừa qua sông biên giới, Trình Bằng Phi mang quân Hán tiến vào phía Lạng Châu và Lão Thử (Chi Lăng). ''Nguyên sử'' chép rằng cánh quân này thắng liền 17 trận, đánh chiếm các đồn Hãm Sa, Tư Trúc<ref>Trần Xuân Sinh, sách đã dẫn, tr 216</ref>. Mũi nhánh thứ 2 của Thoát Hoan có Thoát Hoan đi cùng vượt qua ải Khả Lý, đầu năm 1288 thì đóng ở kênh Mao La.
 
Cuối [[tháng 1]] năm [[1288]], cánh quân [[Vân Nam]] của Aruq gặp đại quân Thoát Hoan ở bên bờ [[sông Hồng]] gần Thăng Long. Thoát Hoan lại sai [[Ô Mã Nhi]] truy đuổi các vua Trần nhưng lần này cũng không thành công.
Các mũi quân của Thoát Hoan vừa qua sông biên giới, Trình Bằng Phi mang quân Hán tiến vào phía Lạng Châu và Lão Thử (Chi Lăng). ''Nguyên sử'' chép rằng cánh quân này thắng liền 17 trận, đánh chiếm các đồn Hãm Sa, Tư Trúc<ref>Trần Xuân Sinh, sách đã dẫn, tr 216</ref>. Mũi nhánh thứ 2 của Thoát Hoan có Thoát Hoan đi cùng vượt qua ải Khả Lý, đầu năm 1288 thì đóng ở kênh Mao La.
 
Ngày [[2 tháng 2]] năm [[1288]], quân Nguyên bắt đầu đánh thành [[Thăng Long]]. Quân Nguyên bao vây tấn công vài lần không có kết quả. [[Trần Hưng Đạo|Trần Quốc Tuấn]] sai Trần Cao vài lần đến trại Thoát Hoan xin giảng hoà, nhưng ban đêm thường kéo ra từng toán nhỏ đánh lén vào trại quân Nguyên, đốt phá lương thực rồi rút lui. Thoát Hoan điều quân ra ngoài truy kích, nhưng quân Trần thường ẩn nấp khó phát hiện ra<ref>Trần Xuân Sinh, sách đã dẫn, tr 221</ref>.
Cuối tháng 1 năm 1288, cánh quân [[Vân Nam]] của Aruq gặp đại quân Thoát Hoan ở bên bờ [[sông Hồng]] gần Thăng Long. Thoát Hoan lại sai [[Ô Mã Nhi]] truy đuổi các vua Trần nhưng lần này cũng không thành công.
 
Trong khi Thoát Hoan vây đánh Thăng Long thì các tướng Nguyên ở Vạn Kiếp vẫn tiếp tục củng cố căn cứ này làm bản doanh; lập hành lang thông sang Trung Quốc để báo tin về nước, nhưng nhiều đồn trại qua các vùng núi thường bị quân Trần đánh phá và cô lập<ref name="ReferenceA">Trần Xuân Sinh, sách đã dẫn, tr 223</ref>. Thoát Hoan cuối cùng chiếm được [[Thăng Long]], quân Trần rút đi. Chờ mãi không thấy thuyền lương của [[Trương Văn Hổ]] tới, ông bèn sai Ô Mã Nhi đi đón nhưng đoàn thuyền lương của Trương Văn Hổ đã bị quân Trần tập kích mất hết lương.
Ngày 2 tháng 2 năm 1288, quân Nguyên bắt đầu đánh thành [[Thăng Long]]. Quân Nguyên bao vây tấn công vài lần không có kết quả. [[Trần Hưng Đạo|Trần Quốc Tuấn]] sai Trần Cao vài lần đến trại Thoát Hoan xin giảng hoà, nhưng ban đêm thường kéo ra từng toán nhỏ đánh lén vào trại quân Nguyên, đốt phá lương thực rồi rút lui. Thoát Hoan điều quân ra ngoài truy kích, nhưng quân Trần thường ẩn nấp khó phát hiện ra<ref>Trần Xuân Sinh, sách đã dẫn, tr 221</ref>.
 
Trong khi Thoát Hoan vây đánh Thăng Long thì các tướng Nguyên ở Vạn Kiếp vẫn tiếp tục củng cố căn cứ này làm bản doanh; lập hành lang thông sang Trung Quốc để báo tin về nước, nhưng nhiều đồn trại qua các vùng núi thường bị quân Trần đánh phá và cô lập<ref name="ReferenceA">Trần Xuân Sinh, sách đã dẫn, tr 223</ref>.
 
Thoát Hoan cuối cùng chiếm được [[Thăng Long]], quân Trần rút đi. Chờ mãi không thấy thuyền lương của [[Trương Văn Hổ]] tới, ông bèn sai Ô Mã Nhi đi đón nhưng đoàn thuyền lương của Trương Văn Hổ đã bị quân Trần tập kích mất hết lương.
 
Ở [[Thăng Long]] mà không có lương thực, Thoát Hoan lúng túng; quân Nguyên lại bị dịch bệnh rất nhiều do không hợp thời tiết<ref name="ReferenceA"/>. Trong khi đó, quân Trần lại bắt đầu phản công mạnh mẽ và kiểm soát vùng Hải Dương và Hải Phòng đẩy Thoát Hoan vào nguy cơ bị cắt đường về Vạn Kiếp.
Trước tình hình như vậy, Thoát Hoan rút quân khỏi Thăng Long quay về Vạn Kiếp, sai Abaci đi tiên phong mở đường.<ref>Hà Văn Tấn và Phạm Thị Tâm (1972), trang 303.</ref>
 
Tại Vạn Kiếp, quân Nguyên cố thủ trong các thành gỗ nhưng thường xuyên bị quân Đại Việt tập kích vào ban đêm. Tình hình thiếu lương thực càng ngày càng trầm trọng. Thoát Hoan quyết định rút quân khỏi Đại Việt. Lúc đó là vào khoảng cuối tháng 3 năm 1288, tức là chỉ 3 tháng sau khi tiến quân vào Đại Việt. Quân Nguyên chia làm 2 ngả rút về, một ngả của thủy quân do [[Ô Mã Nhi]] và [[Phàn Tiếp]] chỉ huy, một ngả của bộ binh do Thoát Hoan chỉ huy.
 
Quân Nguyên chia làm 2 ngả rút về, một ngả của thủy quân do [[Ô Mã Nhi]] và [[Phàn Tiếp]] chỉ huy, một ngả của bộ binh do Thoát Hoan chỉ huy.
Cánh quân thủy của [[Ô Mã Nhi]] bị quân Trần đánh bại trong [[trận Bạch Đằng 1288|trận Bạch Đằng]]. Về phía cánh quân bộ của Thoát Hoan, ngày 8 tháng 4 năm 1288, ông từ Vạn Kiếp tiến lên [[Lạng Sơn]]. Siktur được lệnh dẫn một cánh đi theo hướng Tây (qua Chi Lăng), nhưng đến Hãm Nê thì bị quân Đại Việt chặn đánh, đành trở lại nhập vào đoàn quân của Thoát Hoan. Ngày [[11 tháng 4]], đội quân Nguyên tiến tới cửa Nội Bàng ([[chũ, Lục Ngạn|thị trấn Chũ]] và xã Bình Nội của [[Bắc Giang]] ngày nay) và lọt vào trận địa phục kích của quân Đại Việt. Quân Nguyên cố sức chống cự; Daraci và Lưu Thế Anh phải liều chết mở đường máu cho đại quân thoát khỏi [[cửa Nội Bàng]].
 
Cánh quân thủy của [[Ô Mã Nhi]] bị quân Trần đánh bại trong [[trận Bạch Đằng 1288|trận Bạch Đằng]]. Về phía cánh quân bộ của Thoát Hoan, ngày 8 tháng 4 năm 1288, ông từ Vạn Kiếp tiến lên [[Lạng Sơn]]. Siktur được lệnh dẫn một cánh đi theo hướng Tây (qua Chi Lăng), nhưng đến Hãm Nê thì bị quân Đại Việt chặn đánh, đành trở lại nhập vào đoàn quân của Thoát Hoan. Ngày 11 tháng 4, đội quân Nguyên tiến tới cửa Nội Bàng ([[chũ, Lục Ngạn|thị trấn Chũ]] và xã Bình Nội của [[Bắc Giang]] ngày nay) và lọt vào trận địa phục kích của quân Đại Việt. Quân Nguyên cố sức chống cự; Daraci và Lưu Thế Anh phải liều chết mở đường máu cho đại quân thoát khỏi [[cửa Nội Bàng]].
Qua được Nội Bàng, Thoát Hoan nhận được tin trinh sát rằng phía trước có 30 vạn quân Đại Việt trải dọc suốt 100 dặm mai phục, đành đổi hướng đi qua [[Đơn Kỷ]]<ref>Khoảng huyện [[Đình Lập]] tỉnh Lạng Sơn ngày nay</ref> về Lộc Châu.
Tuy nhiên qua đường này, quân Nguyên vẫn bị quân Đại Việt tập kích. Abaci trúng tên độc tử trận. Mãi đến ngày 19 tháng 4 năm 1288, quân Nguyên mới thoát khỏi biên giới về đến Tư Minh.<ref>Hà Văn Tấn và Phạm Thị Tâm (1972), trang 318-323.</ref>.
 
== Mỹ nhân kế của nhà Trần ==
[[Tháng 2]] năm [[1285]], khi Thoát Hoan lên sông [[Nhĩ Hà]], cột liền bè vào làm cầu, cho quân qua sông; quân ta theo hai bên sông lập đồn để cự lại, không được;. ngàyNgày đã về chiều, quân giặcNguyên qua được sông vào kinh thành Thăng Long, vua[[Trần Thánh Tông]] bèn sai đưa [[An Tư]] công chúa(em]] gáigả vuacho ThánhThoát Tông) cho chúngHoan, để thư nạn cho nước <ref>Theo Đại Việt sử ký toàn thư và Việt sử tiêu án</ref>
 
[[Tháng 3 năm 1285]], An Tư công chúa vào dinh Thoát Hoan ở bờ Bắc sông Hồng. Mưu kế này của vuaNhà Trần đã làm chậm bước tiến quân dồn dập Thoát Hoan vào thành Thăng Long; tạo điều kiện thuận lợi rút lui an toàn và tái tổ chức phản công trên các mặt trận cho vua quan và quânhoàng dântộc nhà Trần.
 
Sau khi chiến thắng quân Nguyên, vàosử tháng 7-1285, nhà Trần làm lễ ở Thái Miếu để thưởng công luận tội màsách không aighi nhắcchép nhởlại đến sự hy sinh của Công chúaviệc An Tư, công chúa cònsống haynhư đãthế chếtnào trong đámnhững loạntháng ngày ở trại quân? SửNguyên. sáchCũng không ghibiết chépkết lạicục việc An Tưcủa công chúa, sống nhưthể thế nàođã trongtheo nhữngTrấn thángNam ngàyvương về trại[[Nhà Nguyên]] cư giặcngụ.
 
== Cuối đời ==
Hai lần thất trận nặng ở Đại Việt của Thoát Hoan khiến vua cha [[Nguyên Thế Tổ]] giận dữ. Ngày [[16/ tháng 2/1291]], (âmnăm lịch)[[1291]], ông được lệnh tới [[Dương Châu]] trấn thủ. Từ đó, ông không được về kinh đô chầu vuaThế Tổ hoàng chađế cho tới khi chết<ref>Nguyên sử, quyển 16, 117</ref>.
 
Khoảng năm [[1301]], Trấn Nam vương Thoát Hoan qua đời, không rõ bao nhiêu tuổi.
 
==Con cháu==
Theo ghi chép của Nguyên sử, Thoát Hoan có 6 người con trai và các cháu là:
* [[Lão Chương]] (老章; ?- 1310?):, được tập phong ''Trấn Nam vương'' của ông. [[Tháng 12 âm lịch]] năm [[1310]], bị phát giác là cho chế đồ nghi vệ như của hoàng đế, bị triệu vào kinh đô để thẩm vấn, không rõ bị chết khi nào.
* [[Thoát Bất Hoa]] (脱不花; ?-12/ 1322):, khi Lão Chương chết được tập phong Trấn Nam vương.
** Bột La Bất Hoa (孛罗不花; ?- 1356?): Khikhi Thoát Bất Hoa chết, còn nhỏ tuổi nên tới tận năm [[1329]] mới được tập phong tước này.
*** Đại Thánh Nô? (大圣奴; ?-1359?)., Khikhi Bột La Bất Hoa chết, được tập phong Trấn Nam vương.
* [[Khoan Triệt Phổ Hóa]] (Minh宽彻普化; sử? chép- là Khoan Triệt Bất Hoa) (?-1365)., Nămnăm [[1323]] phong ''Uy Thận vương'' (威顺王).
** Biệt Thiếp Mộc Nhi.
** Đáp Thiếp Mộc Nhi.
** Báo Ân Nô.
** Tiếp Đãi Nô.
** Phật Gia Nô.
** Hòa Thượng: (和尚), Sau được [[Nguyên Huệ Tông|Nguyên Thuận Đế]] phong là ''Nghĩa vương'' (义王) và cùng vua Nguyên chạy lên [[Mạc Bắc]] vào năm [[1368]] khi [[nhà Minh]] nổi lên.
* [[Thiếp Mộc Nhi Bất Hoa]] (帖木兒不花; 1286 - 1368):, Đượcđược tập phong Trấn Nam vương sau khi Thoát Bất Hoa chết. Năm [[1329]], trả lại tước này cho Bột La Bất Hoa, đổi thành Tuyên Nhượng''Hoài vương'' (Hoài vương淮王).
* Văn Tể vương [[Man Tử]] (文济王蛮子).
* An Đức vương [[Bất Đáp Thất Lý]] (安德王不答失里).
 
==Xem thêm==