Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Trần Quang Vinh (Cao Đài)”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n →‎Công nghiệp hành đạo tại Hội Thánh Ngoại Giáo: clean up, replaced: đảo chánh → đảo chính using AWB
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 1:
{{cần biên tập}}
'''Trần Quang Vinh''' (1897-1975?), cònthánh được gọi là Phối sưdanh '''Thượng Vinh Thanh''', đạo hiệu '''Hiển Trung''', là vịmột chức sắc cao cấp của đạo Cao Đài nổivới tiếngphẩm trênPhối chínhsư. trườngÔng miền Namngười Việtsáng Nam,lập từng là Tổng tư lệnh quân đội Cao Đài, đại biểu đạo Cao Đài trong [[Việt Minh|Mặt trận Việt Minh]], chính khách qua các thời kỳ [[Quốc gia Việt Nam]] và [[Việt Nam Cộng hòa]].
 
== Thân thế và đạo hạnh Hội Thánh Ngoại Giáo ==
Ông sinh tại [[Long Xuyên]] ngày [[8 tháng 9]] năm [[1897]]. Sau khi tốt nghiệp trường [[Trường Trung học phổ thông Lê Quý Đôn, Thành phố Hồ Chí Minh|Collège Chasseloup-Laubat]], [[Thành phố Hồ Chí Minh|Sài Gòn]], ông ra làm Thông phán ngạch Chính phủ Pháp bảo hộ tại [[Phnôm Pênh|Nam Vang]] ([[Campuchia]]). NămÔng 1931,nhâp lầnmôn đầuvào tiênđạo ôngCao Đài sangqua côngđàn cán tại [[PhápPhnôm Pênh|Nam Vang]] nhân([[Campuchia|Cao dịpMiên]]) Đấudo xảoHộ quốc tế tạipháp [[VincennesPhạm Công Tắc]] (và Tiếp đạo [[ParisCao Đức Trọng]]) phò loan tháng 6 năm 1927.
 
Chỉ một tháng sau, ngày [[27 tháng 7]] năm [[1927]], ông được ân phong phẩm Lễ sanh, thánh danh là Thượng Vinh Thanh, chuyên lo hành Đạo tại [[Kim Biên]] và tạo dựng Hội Thánh Ngoại Giáo tại đây nhằm mục đích truyền bá đạo Cao Đài cho người [[Campuchia]] và người ngoại quốc khác.
Sau khi [[Lục quân Đế quốc Nhật Bản|quân Nhật]] tiến vào [[Bán đảo Đông Dương|Đông Dương]], với sự hậu thuẫn của người Nhật, ông thành lập lực lượng bán quân sự Cao Đài năm 1943 với danh nghĩa phò trợ Kỳ Ngoại hầu [[Cường Để]] và giữ chức Đệ nhứt Tổng tư lịnh. Chính lực lượng này tham gia cùng với quân đội Nhật thực hiện cuộc đảo chính Pháp ngày [[9 tháng 3]] năm 1945.
* Bộ Trưởng Quốc Phòng trong Chính phủ [[Nguyễn Văn Xuân]] từ ngày [[1 tháng 6]] năm [[1948]] đến ngày [[30 tháng 6]] năm [[1949]] và trong Chính phủ [[Bảo Đại]] từ ngày [[1 tháng 7]] năm [[1949]] đến ngày [[31 tháng 1]] năm [[1950]].
* Tổng Trưởng Bộ Quân Lực trong Chính phủ [[Trần Văn Hữu]] từ ngày [[6 tháng 5]] năm [[1950]] đến ngày [[28 tháng 2]] năm [[1951]].
* Công Cán Chính phủ về Quân Sự tại Pháp quốc trong thời gian 6 tháng kể từ ngày [[9 tháng 3]] năm [[1951]].
* Phó Chủ Tịch [[Thượng Hội đồng Quốc gia (Việt Nam, 1964)|Thượng Hội Đồng Quốc Gia]] từ ngày ngày [[24 tháng 9]] năm [[1964]] đến ngày [[19 tháng 12]] năm [[1964]].
* Phó Chủ Tịch [[Hội Đồng Quốc Gia Lập Pháp]] [[Việt Nam Cộng hòa|Việt Nam Cộng Hòa]] từ ngày [[17 tháng 2]] năm [[1965]] đến ngày [[19 tháng 6]] năm [[1965]].
 
Ngày [[2 tháng 4]] năm [[1930]] ông được thăng hàng phẩm Giáo hữu, giữ trách nhiệm Quản lý Nội viện, một trong Cửu viện (tức 9 cơ quan hành đạo Trung ương của đạo Cao Đài).
== Cuộc đời hành đạo ==
Ông nhâp môn vào đạo Cao Đài qua đàn cơ tại [[Phnôm Pênh|Nam Vang]] ([[Campuchia|Cao Miên]]) do Hộ Pháp [[Phạm Công Tắc]] và Tiếp Đạo Cao Đức Trọng phò loan tháng 6 năm 1927. Đến ngày [[27 tháng 7]] năm [[1927]] ông được ân phong phẩm Lễ Sanh, Thánh danh là Thượng Vinh Thanh. Cho đến ngày [[2 tháng 4]] năm [[1930]] ông được thăng hàng phẩm Giáo Hữu. Sau được [[Giáo hội Cao Đài Tây Ninh|Hội Thánh Cao Đài Tòa Thánh Tây Ninh]] thăng phẩm [[Giáo Sư]] ngày [[21 năm 3]] tháng [[1932]]. Cuối cùng ông được thăng Phối Sư ngày [[15 tháng 2]] năm [[1948]].
 
Năm 1931, lần đầu tiên ông sang công cán tại [[Pháp]] nhân dịp Đấu xảo quốc tế tại [[Vincennes]] ([[Paris]]). Nhân dịp này, ông truyền bá đạo Cao Đài và phổ độ được tất cả 15 người Pháp, trong đó có 5 người được phong vào hàng chức sắc năm 1932 (gồm Tiếp Dẫn Đạo nhơn: Ông Gabriel Gobron; Nữ Giáo sư: Bà Felicien Challaye; Giáo hữu: Ông Charles Bellan; Giáo hữu: Ông Gabriel Abadie de Lestrac; Nữ Lễ sanh: Bà Gabriel Gobron, sau thăng Giáo hữu). Thông qua các tín đồ người Pháp, ông cũng thực hiện một số cuộc vận động để chính phủ chính quốc Pháp công nhân đạo Cao Đài. Nhờ công tích này, sau khi từ Pháp trở về, ông được [[Giáo hội Cao Đài Tây Ninh|Hội Thánh Cao Đài Tòa Thánh Tây Ninh]] thăng phẩm [[Giáo sư (Cao Đài)|Giáo sư]] ngày [[21 năm 3]] tháng [[1932]], trách nhiệm Phó chủ trưởng Hội Thánh Ngoại Giáo. Năm 1937, ông được thăng lãnh trách nhiệm Chủ trưởng Hội Thánh Ngoại Giáo.
== Khổ hạnh vì đạo ==
Khi [[Pháp]] tái chiếm [[Nam Bộ Việt Nam|Nam Bộ]], các nhóm lực lượng vũ trang Cao Đài Tòa Thánh Tây Ninh tham chiến tại các mặt trận số 1 và số 2, chiến đấu ở mặt Đông và Bắc Sài Gòn. Sau khi vào Nam, đặc phái viên Trung ương [[Nguyễn Bình]] đã tổ chức hội nghị An Phú Xã, thống nhất tổ chức các đơn vị vũ trang thành các chi đội Vệ Quốc đoàn. Lực lượng vũ trang Cao Đài Tòa Thánh Tây Ninh được tổ chức thành 2 chi đội số 7 do [[Nguyễn Thanh Bạch]] chỉ huy và chi đội số 8 do Nguyễn Hoài Thanh chỉ huy.
 
== Xây dựng lực lượng vũ trang Cao Đài ==
Tuy nhiên, trước sức mạnh của quân Pháp, các mặt trận nhanh chóng tan vỡ. Nhiều đơn vị vũ trang tan rã, hoặc trở thành những lực lượng quân phiệt cát cứ, không chịu sự chỉ huy thống nhất. Một số chức sắc cao cấp và chỉ huy quân sự Cao Đài đã đưa lực lượng của mình tự rút về [[Tây Ninh]] và tự xây dựng các căn cứ để bảo vệ [[Tòa Thánh Tây Ninh]].
SauNăm khi1941, [[Lục quân Đế quốc Nhật Bản|quân Nhật]] tiến vào [[Bán đảo Đông Dương|Đông Dương]]. Bấy giờ ông làm việc tại xưởng Ba Son, hợp tác với người Nhật qua hãng đóng tàu “Nitinan”. Ông gia nhập Việt Nam Phục quốc Đồng minh Hội, chủ trương ủng hộ Kỳ Ngoại hầu [[Cường Để]], được bầu làm phó hội trưởng. Với sự hậu thuẫn của người Nhật, ông thành lập lực lượng bán quân sự Cao Đài năm 1943 với danh nghĩa phò trợ Kỳ Ngoại hầu [[Cường Để]] và giữ chức Đệ nhứt Tổng tư lịnh. Chính lực lượng này tham gia cùng với quân đội Nhật thực hiện cuộc đảo chính Pháp ngày [[9 tháng 3]] năm 1945.
 
Không lâu sau, quân Nhật đầu hàng Đồng Minh và [[Cách mạng tháng 8]] nổ ra. Bấy giờ, lực lượng bán quân sự Cao Đài là một trong những tổ chức bán quân sự được huấn luyện tốt, tổ chức chặt chẽ và có thực lực tại Nam Bộ. Chính vì vậy, ông được chính quyền lâm thời của [[Việt Minh]] tại Nam Bộ mời làm đại biểu đạo Cao Đài trong Mặt trận Việt Minh, nhằm tranh thủ sự ủng hộ của các tín đồ và tổ chức bán quân sự Cao Đài.
Hành động cát cứ này là lý do để các phần tử Việt Minh quá khích lên án các tín đồ Cao Đài Tòa Thánh Tây Ninh là phản bội. Một vài cuộc xung đột đẫm máu đã nổ ra bắt nguồn từ những tín đồ Cao Đài và các phần tử Việt Minh quá khích. Một số đơn vị vũ trang Cao Đài bị tước khí giới trong những cuộc thanh trừng nội bộ. Trần Quang Vinh lúc này còn ở hàng phẩm Giáo Sư, đại biểu Cao Đài trong Mặt trận Việt Nam cũng bị bắt tại [[Chợ Đệm]] và bị giải giam tại [[Cà Mau]] cùng với Giáo sư [[Hồ Văn Ngà]], Chủ tịch [[Đảng Việt Nam Độc lập|Việt Nam Độc lập Đảng]]. Ngày [[26 tháng 1]] năm ông vượt ngục thoát được sau 107 ngày bị Việt Minh giam cầm. Và 15 ngày sau, tức ngày 11 tháng 2 năm 1946 ông về đến Sài Gòn. Đến ngày [[8 tháng 5]] năm [[1946]], ông bị mật thám Pháp bắt giữ và được trả tự do ngày 30 tháng 5 năm 1946 sau 22 ngày giam cầm. Về sau ông bị nhiều thành phần chính trị khác bắt giữ. Tổng cộng những ngày khổ hạnh vì Đạo là 312 ngày (10 tháng lẻ 12 ngày).
 
Khi [[Pháp]] tái chiếm [[Nam Bộ Việt Nam|Nam Bộ]], các nhóm lực lượng vũ trang Cao Đài Tòa Thánh Tây Ninh tham chiến tại các mặt trận số 1 và số 2, chiến đấu ở mặt Đông và Bắc Sài Gòn. Sau khi vào Nam, đặc phái viên Trung ương [[Nguyễn Bình]] đã tổ chức hội nghị An Phú Xã, thống nhất tổ chức các đơn vị vũ trang thành các chi đội Vệ Quốc đoàn. Lực lượng vũ trang Cao Đài Tòa Thánh Tây Ninh được tổ chức thành 2 chi đội số 7 do [[Nguyễn Thành Phương|Nguyễn Thanh Bạch]] chỉ huy và chi đội số 8 do [[Nguyễn Văn Thành (Cao Đài)|Nguyễn Hoài Thanh]] chỉ huy.
== Công nghiệp hành đạo tại Hội Thánh Ngoại Giáo ==
- Từ ngày được phong chức Lễ Sanh, ngày 27 tháng 7 năm 1927, ông chuyên lo hành Đạo tại [[Kim Biên]] và tạo dựng Hội Thánh Ngoại Giáo tại đây nhằm mục đích truyền bá đạo Cao Đài cho người [[Campuchia]] và người ngoại quốc khác. Ngày 2 tháng 4 năm 1930, ông cầu thăng Giáo Hữu, giữ trách nhiệm Quản Lý Nội Viện một trong Cửu Viện tức 9 cơ quan hành đạo Trung ương của Cao Đài giáo. Năm 1931, ông sang Pháp mở Đạo, phổ độ được tất cả 15 người vào Đạo, trong số này có nhiều vị được tân phong vào hàng Chức Sắc năm 1932 kể tên sau đây:
 
Tuy nhiên, trước sức mạnh của quân Pháp, các mặt trận nhanh chóng tan vỡ. Nhiều đơn vị vũ trang tan rã, hoặc trở thành những lực lượng quân phiệt cát cứ, không chịu sự chỉ huy thống nhất. Một số chức sắc cao cấp và chỉ huy quân sự Cao Đài đã đưa lực lượng của mình tự rút về [[Tây Ninh]] và tự xây dựng các căn cứ để bảo vệ [[Tòa Thánh Tây Ninh]].
- Tiếp Dẫn Đạo Nhơn: Ông Gabriel Gobron.
 
Hành động cát cứ này là lý do để các phần tử Việt Minh quá khích lên án các tín đồ Cao Đài Tòa Thánh Tây Ninh là phản bội. Một vài cuộc xung đột đẫm máu đã nổ ra bắt nguồn từ những tín đồ Cao Đài và các phần tử Việt Minh quá khích. Một số đơn vị vũ trang Cao Đài bị tước khí giới trong những cuộc thanh trừng nội bộ. Trần Quang VinhÔng lúc này cònđang ở hàng phẩm Giáo Sư, đại biểu Cao Đài trong Mặt trận Việt Nam cũng bị bắt tại [[Chợ Đệm]] và bị giải giam tại [[Cà Mau]] cùng với Giáo sư [[Hồ Văn Ngà]], Chủ tịch [[Đảng Việt Nam Độc lập|Việt Nam Độc lập Đảng]]. Ngày [[26 tháng 1]] năm, ông vượt ngục thoát được sau 107 ngày bị Việt Minh giam cầm. Và 15 ngày sau, tứcđến ngày 11 tháng 2 năm 1946 ôngthì về đến Sài Gòn. Đến ngày [[8 tháng 5]] năm [[1946]], ông bị mật thám Pháp bắt giữ và được trả tự do ngày 30 tháng 5 năm 1946 sau 22 ngày giam cầm. Về sau ông bị nhiều thành phần chính trị khác bắt giữ. TổngTheo cộnghồi những ngàycủa khổông, hạnhtổng thời Đạogian ông bị giam cầm là 312 ngày (10 tháng lẻ 12 ngày).<ref>Phối Sư Thượng Vinh Thanh, ''Hồi ký Trần Quang Vinh''.</ref>
- Nữ Giáo Sư: Bà Felicien Challaye.
 
==Chức sắc và chính khách Cao Đài==
- Giáo Hữu: Ông Charles Bellan.
Nhằm chia cắt một lực lượng tôn giáo mạnh với Mặt trận Việt Minh, người Pháp chấp nhận trả tự do cho Hộ pháp Phạm Công Tắc, đổi lại việc các tín đồ Cao Đài sẽ không tấn công người Pháp. Lực lượng vũ trang Cao Đài được kiện toàn thành Quân đội Cao Đài, được người Pháp trang bị và huấn luyện để chống lại Việt Minh. Tổng hành dinh của Quân đội Cao Đài đặt tại Bến Kéo, Tây Ninh. Riêng ông được Hộ pháp Phạm Công Tắc bổ nhiệm chính thức làm Tổng tư lệnh Quân đội Cao Đài với cấp bậc Trung tướng, Đại diện Hộ pháp về mặt quân sự. Ông giữ chức vụ này đến năm 1951 thì chuyển giao cho Trung tướng [[Nguyễn Văn Thành (Cao Đài)|Nguyễn Văn Thành]].
 
Ngày [[15 tháng 2]] năm [[1948]], ông được thăng phẩm Phối sư, đặc trách việc giao thiệp đối ngoại. Sau khi chính phủ [[Quốc gia Việt Nam]] được thành lập, ông lần lượt giữ các chức vụ Bộ trưởng Quốc phòng trong chính phủ [[Nguyễn Văn Xuân]] (từ [[1 tháng 6]] năm [[1948]] đến [[30 tháng 6]] năm [[1949]]) và chính phủ [[Bảo Đại]] (từ [[1 tháng 7]] năm [[1949]] đến [[31 tháng 1]] năm [[1950]]); Tổng trưởng Bộ Quân lực trong chính phủ [[Trần Văn Hữu]] (từ [[6 tháng 5]] năm [[1950]] đến [[28 tháng 2]] năm [[1951]]); Công cán Chính phủ về Quân sự tại Pháp quốc trong thời gian 6 tháng kể từ ngày [[9 tháng 3]] năm [[1951]].
- Giáo Hữu: Ông Gabriel Abadie de Lestrac.
 
Trở về Tòa Thánh Tây Ninh<ref>Theo giáo luật Tòa Thánh Tây Ninh, các chức sắc từ phẩm Phối sư trở lên phải ở tại Tòa Thánh</ref>, ông lần lượt được Hộ pháp Phạm Công Tắc trong nhiều chức vụ cao cấp như:
- Nữ Lễ Sanh: Bà Gabriel Gobron, sau thăng Giáo Hữu.
* Ngày [[12 tháng 2]] năm [[1952]], Phối sư Cố vấn Hành Chánh Đạo kiêm Thượng Thống Hộ Viện
* Ngày [[12 tháng 3]] năm [[1952]], Cố vấn cho Chỉ huy Cơ Thánh Vệ.
Đến* ngàyNgày [[2025 tháng 14]] năm [[19641952]], ông lãnh chức Trưởng Ban PhổKinh Tếtế. Hải Ngoại.
* Ngày [[28 tháng 6]] năm [[1952]], Nghị trưởng Hội đồng Tối cao.
* Ngày [[25 tháng 1]] năm [[1953]], ông làm Tổng Giámgiám đốc Ban Kinh tế Trung ương Tòa Thánh Tây Ninh.
* Ngày [[26 tháng 2]] năm [[1953]], ông thay quyền 3 Chánh Phối Sư tiếp quan khách và đi dự các Hội nhóm ngoài Đời khi có thư mời.
 
Tháng 10 năm 1953, Hộ pháp Phạm Công Tắc cách chức Trung tướng [[Nguyễn Văn Thành (Cao Đài)|Nguyễn Văn Thành]], và bổ nhiệm ông làm quyền Chỉ huy trưởng Quân đội Cao Đài. Tuy nhiên, ngày [[1 tháng 11]] năm 1953, Chỉ huy trưởng Cơ Thánh Vệ là Thiếu tướng Nguyễn Thành Phương đã tổ chức bắt cóc ông giam lỏng tại căn cứ Bà Đen của quân Cao Đài Liên Minh và gây áp lực buộc Hộ pháp Phạm Công Tắc phải bổ nhiệm mình vào chức vụ Chỉ huy trưởng Quân đội Cao Đài. Mãi đến ngày [[18 tháng 4]] năm 1954, ông mới được trả tự do. Để tránh xung đột với tướng Nguyễn Thành Phương, Hộ pháp Phạm Công Tắc thuyên chuyển ông sang Pháp hành Đạo.<ref>Phối Sư Thượng Vinh Thanh, ''Hồi ký Trần Quang Vinh''.</ref>
Ngoài việc phổ thông chơn đạo, còn lo binh vực đạo Cao Đài được kết quả mỹ mãn là tự do tín ngưỡng của Cao Đài giáo được [[Chính phủ Pháp]] nhìn nhận.
 
Ông tiếp tục giai đoạn truyền đạo tại Pháp mãi đến ngày [[30 tháng 10]] năm 1961, mới được lãnh đạo Tòa Thánh bấy giờ là Thượng sanh [[Cao Hoài Sang]] triệu hồi về Tòa Thánh với trách nhiệm làm Phối sư Đặc nhiệm Cố vấn cho 3 Chánh Phối Sư, đặc trách giao thiệp với chính phủ và chính quyền địa phương, với quốc tế, với các chi phái, kiêm Trưởng Ban Huấn Đạo. Ngày [[20 tháng 1]] năm [[1964]], ông lãnh chức Trưởng Ban Phổ Tế Hải Ngoại. Ông giữ các chức vụ trên đây đến ngày [[26 tháng 3]] năm [[1964]].
Lúc ông từ Pháp trở về, nhân ngày vía Đức Chí Tôn năm 1932, sau thời cúng Đại Đàn, được Quyền Giáo Tông [[Lê Văn Trung (giáo tông)|Thượng Trung Nhựt]], Hộ Pháp Phạm Công Tắc, các Chức Sắc và toàn cả Đàn cúng hoan nghênh nhiệt liệt. Ngày [[21 tháng 3]] năm [[1932]], ông được ân thăng Giáo Sư, trách nhiệm Phó Chủ Trưởng Hội Thánh Ngoại Giáo.
 
Khi [[Thượng Hội đồng Quốc gia (Việt Nam, 1964)|Thượng Hội đồng Quốc gia Việt Nam Cộng hòa]] được thành lập, ông được mời tham gia Hội đồng và được bầu làm Phó chủ tịch từ [[24 tháng 9]] năm [[1964]] đến [[19 tháng 12]] năm [[1964]]; sau đó ông được bầu làm Phó chủ tịch Hội đồng Quốc gia Lập pháp]] [[Việt Nam Cộng hòa]] từ [[17 tháng 2]] năm [[1965]] đến [[19 tháng 6]] năm [[1965]].
Năm 1937, lãnh trách nhiệm Chủ Trưởng Hội Thánh Ngoại Giáo.
 
== Kết cục khổkhông đau ==
Từ năm 1942 tới năm 1952, trở về [[Nam Kỳ]], tuân lịnh Đức Lý Đại Tiên và Quyền Giáo Tông Thượng Trung Nhựt, ông hiệp tác với [[quân đội Nhật Bản]], đảo chính Pháp ngày 9 tháng 3 năm 1945.
Chiều ngày [[30 tháng 4]] năm [[1975]], quânmột độisố [[Việtbinh Namsĩ của Chính phủ Dânlâm chủthời Cộng hòa]] miền Nam Việt Nam tiến vào Tòa Thánh Tây Ninh bắt ông dẫn qua [[núi Bà Đen]]. Cũng từ đó không ai biết về số phận của ông nữa, có người nói ông bị [[Chủ nghĩa cộng sản|Cộng Sản]] thủ tiêu, còn nhiều tài liệu khác thì nói ông bị tù cải tạo và mất trong tù.
 
==Gia đình==
== Công cuộc truyền bá đạo tại ngoại quốc ==
Ông có 2 người con là các chức sắc Cao Đài cao cấp:
*Pháp Quốc: Do sự can thiệp của ông, nên ngày [[3 tháng 5]] năm [[1967]] Hội Thánh [[Hiệp Thiên Đài]] biểu quyết ban phẩm Lễ Sanh tạm phong cho bà Lê Kim Huê và từ đây tại [[Paris]] (Pháp quốc) đã có tiểu Thánh Thất ở số 12 đường [[Francois Xavier]], Paris 5è.
 
* Trần Kim Huệ, phẩm Hiền tài
*Tại [[Congo]]: Ngày [[22 tháng 3]] năm [[1966]] ông đã phổ thông tại đây được 32 đạo hữu nam nữ. Ngày [[7 tháng 2]] năm [[1972]], có tin Bàn Trị Sự Congo cho hay rằng số tín đồ đã lên 100. Bàn Trị Sự Chức việc Congo đã được thành lập ngày [[1 tháng 4]] năm [[1967]] gồm 8 Chức Việc nam phái và 2 Chức Việc nữ phái.
* Trần Quang Cảnh, phẩm Lễ sanh
== Chú thích ==
{{Tham khảo|2}}
 
==Tham khảo==
Chánh Trị Sự tên Mata Georges, địa chỉ tại B.P. 1371, [[Kinshasa]] (R.D. du Congo).
 
==Công nghiệp hành đạo tại Tòa Thánh Tây Ninh ==
Ngày [[12 tháng 2]] năm [[1952]] (âl. 17-1 Nhâm Thìn), trong phiên nhóm Đại Hội các Cơ Quan Đạo dưới quyền chủ tọa của Hộ Pháp Phạm Công Tắc, ông được ủy quyền nhiệm vụ Phối Sư cố vấn Hành Chánh Đạo kiêm Thượng Thống Hộ Viện. Thánh lịnh số 59 ngày [[12 tháng 3]] năm [[1952]] giao ông nhiệm vụ Cố Vấn Cho Chỉ Huy Cơ Thánh Vệ. Thánh lịnh số 76 ngày [[25 tháng 4]] năm [[1952]], giao cho ông giữ chức Trưởng Ban Kinh Tế. Ngày [[28 tháng 6]] năm [[1952]], ông lãnh nhiệm vụ Nghị Trưởng Hội Đồng Tối Cao.
 
Ngày [[25 tháng 1]] năm [[1953]], ông làm Tổng Giám đốc Ban Kinh tế Trung ương Tòa Thánh Tây Ninh.
 
Ngày [[26 tháng 2]] năm [[1953]], ông thay quyền 3 Chánh Phối Sư tiếp quan khách và đi dự các Hội nhóm ngoài Đời khi có thư mời.
 
Đến ngày [[20 tháng 1]] năm [[1964]], ông lãnh chức Trưởng Ban Phổ Tế Hải Ngoại.
 
Ngoài ra ông còn lãnh trách nhiệm như:
*Đại biểu đạo Cao-Đài trong Mặt trận Việt Minh (1942-1946).
*Đại Diện Hộ Pháp Phạm Công Tắc về mặt Quân Sự (1947-1951).
*Phối Sư Đặc Nhiệm: Giao thiệp với Chính Phủ và Chính Quyền địa phương, giao thiệp với Quốc Tế, giao thiệp với Chi Phái.
*Trưởng Ban Huấn Đạo: Cố vấn cho ba vị Chánh Phối Sư (Cố Vấn Hành Chánh Đạo)
Nhiệm vụ trên đây chấm dứt do bài Thánh Giáo của Đức Lý Giáo Tông giáng tại Cung Đạo Tòa Thánh Tây Ninh đêm ngày [[26 tháng 3]] năm [[1964]].
 
== Kết cục khổ đau ==
Chiều ngày [[30 tháng 4]] năm [[1975]], quân đội [[Việt Nam Dân chủ Cộng hòa]] tiến vào Tòa Thánh Tây Ninh bắt ông dẫn qua [[núi Bà Đen]]. Cũng từ đó không ai biết về số phận của ông nữa, có người nói ông bị [[Chủ nghĩa cộng sản|Cộng Sản]] thủ tiêu, còn nhiều tài liệu khác thì nói ông bị tù cải tạo và mất trong tù.
 
== Chú thích ==
*Phối Sư Thượng Vinh Thanh, Hồi ký Trần Quang Vinh.
*Huỳnh Tâm, Từ [[Trình Minh Thế|Trịnh Minh Thế]] đến [[Edward G. Lansdale]].
*Tài liệu Ban Đạo Sử Tòa Thánh Tây Ninh.
 
[[Thể loại:Người Long Xuyên]]
[[Thể loại:Sinh 1897]]
[[Thể loại:Năm mất không rõ]]