Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Trâu rừng rậm châu Phi”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 19:
==Đặc điểm==
===Hình dáng===
Chúng là phân loài nhỏ nhất; chiều cao vai u ít hơn 120 cm và cân nặng trung bình khoảng 270 kg (600 lb). Có màu đỏ, với các mảng sẫm màu trên đầu và vai trong tai tạo thành hình một cây bút lông. Trâu lùn phổ biến ở vùng rừng tại Trung và Tây châu Phi. Phân loài này rất khác nhau từ hình mẫu tiêu chuẩn, một số nhà nghiên cứu xem xét nó vẫn là một loài riêng biệt, S. nanus. Lai giữa phân loài điển hình và lùn không phải hiếm.
 
Trâu rừng rậm châu Phi là nhiều nhỏ hơn so với kích thước của trâu rừng châu Phi. Trâu rừng châu Phi cân năng đến 400–800 kg (880-1760 lbs), trong khi trâu rừng rậm châu Phi có trong lương nhẹ hơn nhiều, chúng chỉ cân nặng từ 250–320 kg (550-705 lbs). Trọng lượng không phải là sự khác biệt duy nhất vì phân loài này có đặc điểm hơi đỏ ẩn màu nâu đậm ở vùng da mặt. Hình dạng và kích thước của sừng trâu rừng phân biệt từ phân loài khác. Trâu rừng rậm châu Phi có sừng nhỏ hơn nhiều so với các họ hàng trên thảo nguyên của chúng như trâu Cape. Sừng trâu Cape thường phát triển và kết hợp lại với nhau, nhưng sừng trâu rừng hiếm khi như vậy.
 
Trâu đồng cỏ có bộ lông màu đen hoặc nâu sẫm tùy lứa tuổi. Trâu đực lớn có vòng tròn màu trắng xung quanh mắt. Trâu cái bộ lông có xu hướng hung đỏ hơn. Trâu rừng rậm thường có màu nâu hơi đỏ với cặp sừng cong ngược và vút nhẹ lên. Nghé con của cả hai loại có bộ lông màu đỏ. Một đặc trưng tiêu biểu của cặp sừng trâu đực châu Phi trưởng thành là sự hợp nhất góc sừng, tạo thành một lá chắn xương liên tiếp được gọi là một "boss" (cái bướu). Từ góc sừng, sừng rẽ ra hướng xuống dưới, sau đó nhẹ nhàng cong lên trên và hướng ra ngoài. Trâu đực lớn, khoảng cách giữa hai điểm kết thúc của hai sừng có thể đạt trên 1 mét. Cặp sừng hình thành hoàn chỉnh khi con vật đến 5 hoặc 6 năm tuổi. Trâu cái, sừng đạt trung bình, nhỏ hơn 10-20%, và cái bướu ít nổi bật. Sừng trâu rừng rậm có kích thước nhỏ hơn so với trâu đồng cỏ, thường đo được ít hơn 40 xentimét (16 in), và hầu như không bao giờ hợp nhất.
==Nguồn gốc==
Trâu châu Phi không phải là tổ tiên của [[bò nhà]], và chỉ có họ hàng xa với nhiều loài bò lớn khác. Do tính chất không thể đoán trước, làm cho loài trâu này rất nguy hiểm với con người, trâu châu Phi chưa bao giờ được [[thuần hóa]] không giống như [[trâu nước]] ở châu Á. Chúng dễ bị nhiễm nhiều bệnh, bao gồm bệnh lao bò, bệnh lang, và lở mồm long móng. Cũng như với nhiều loại bệnh, những vấn đề này sẽ vẫn không xảy ra trong phạm vi một quần thể miễn là sức khỏe của con vật tốt. Song, bệnh tật hạn chế bài tiết thông thường của con vật và hàng rào khu vực bị nhiễm từ khu vực bị ảnh hưởng phát tán. Một số người giám sát và quản lý săn đã được quản lý để bảo vệ và nuôi "bệnh miễn phí" cho đàn thú mà trở nên rất có giá trị vì chúng có thể được vận chuyển.
 
===Phân bố===