Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Triệu Minh Vương”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Dòng 42:
Anh Tề ở đất Hán 10 năm. Đến năm 125 TCN, vua cha là [[Triệu Văn Đế]] mất, Anh Tề được về nước để nối ngôi, tức là vua '''Triệu Minh Vương'''.
 
ÔngKhi lên ngôi, ông bèn cất giấu ấn của Tiên đế (tức [[Triệu Vũ Đế]]), bỏ tiếm hiệu (không xưng Đế nữa)<ref>Đại Việt sử ký toàn thư, Quyển 2, Kỷ nhà Triệu, có chép: "Mậu Thìn, năm thứ 12, (Hán Nguyên Đỉnh năm thứ 4). Trước kia vua làm thế tử, sang làm con tin cho nhà Hán ở Trường An, lấy con gái người họ Cù ở Hàm Đan, sinh con tên là Hưng. Đến khi lên ngôi, giấu ấn của tiên đế đi, dâng thư sang nhà Hán xin lập Cù thị làm hoàng hậu, Hưng làm thế tử."</ref> và lập [[Cù thị]] làm [[Vương hậu]] và trọng dụng [[Lữ Gia]], thăng làm chức Thái phó. Sau đó ông sinh được con trai là [[Triệu Hưng]] và lập làm [[thế tử]]. Ngoài [[Cù thị]] và [[Triệu Hưng]], ông còn có một bà vợ người Việt, sinh con là [[Triệu Dương Vương|Triệu Kiến Đức]] và một người con khác là Thứ Công (次公). Cả Kiến Đức và Thứ Công đều lớn tuổi hơn [[Triệu Hưng]].
 
[[Hán Vũ Đế]] mấy lần sai sứ giả sang dụ ông vào chầu. Triệu Minh Vương sợ vào yết kiến phải theo pháp độ [[nhà Hán]] ngang với các [[chư hầu]] ở trong triều, nên cố ý cáo ốm không đi và sai con là Thứ Công vào làm con tin.