Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Tống Cung Đế”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
clean up, replaced: → (3) using AWB
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 60:
 
== Vua mất nước ==
=== Sư tướng đốc chiến ===
 
Ngày Giáp Thân ([[13 tháng 8]]), Tạ thái hậu phong vương cho các con của Độ Tông; [[Tống Đoan Tông|Triệu Thị]] làm Cát vương; [[Triệu Bính]] làm Tín vương. Ngày Bính Tuất ([[15 tháng 8]]), tôn Tạ thái hậu là thái hoàng thái hậu, Toàn hoàng hậu trở thành hoàng thái hậu<ref name="TTTTG180" />.
 
Lúc này thì Tương Dương, Phàn Thành đã thất thủ, Lưỡng Hoài hầu như bị quân Nguyên kiểm soát. Kinh[[Nguyên HồThế chếTổ]] trílấy sứcớ [[UôngGiả LậpTự TínĐạo]] dângbội thưước, lêncử Tự[[Bá ĐạoNhan]] bànthống haichế kếcác sáchlộ giữbinh nước (tậpgồm hợp20 binhvạn quân, tạmhàng xintướng hòa[[Lưu hoãn)Chỉnh]] nhưng Tự[[Lã ĐạoVăn khôngHoán]] nghe,dẫn mắngđường; Lậptiến Tínxuống phía thằngnam. mù<ref>VìTháng 9 ÂL năm đó, [[Uông Lập TínNhan]] đãhội quân ở Tương Dương, chia quân ba đạo vượt sông. Triều Tống bại hết trận này đến trận khác, bị bắnkhí chộtsút mộtkém mắt</ref>hẳn.
 
Tháng 11 ÂL, triều Tống lấy [[Vương Dược]], [[Chương Giám]] làm Tả Hữu thừa tướng; đó đều là quyết định của [[Giả Tự Đạo]]. Lúc này thì quân Nguyên chiếm Sa Dương, Tân Thành, Vân An, La Củng, Cao Dương, nhiều tướng tuẫn tiết. [[Bá Nhan]] tiến chiếm Phúc châu. Chỉ có Hoài Tây chế trí sứ, [[Hạ QuỳQuý]] dùng vạn chiến thuyền đóng giữ ở các nơi hiểm yếu, Đô Thống chế [[Vương Đạt]] chỉ cầm cựchân ở Dương La Bảo, Kinh Hồ tuyên phủ sứ [[Chu Tự Tôn]] dùng quân du kích đánh địch mới tạm ngănhọ được bướcnhất tiến của quân Nguyênthời. Nhưng vận số của triều Tống đã hết, không thể chống giữ được bao lâu. Tháng 12 ÂL, Bá Nhan đưa quân từ Hán Khẩu, đánh bại quân Tống rồi đóng 10 vạn quân kị ở Giang Bắc, lại sai [[A Lí Hải Nhai]] cùng [[Trương Hoằng Phạm]] tiến đánh Dương La Bảo, đánh bại quân củagiết [[Vương Đạt và Hạ Quý]]; sau đó [[A Thuật]] dẫn đại quân vượt Trường Giang, [[Hạ Quý]] phải bỏ chạy. Quân Nguyên phá được Dương La Bảo, [[Vương Đạt]] tử trận. [[Bá Nhan]] chuẩn bị lấy Kinh Hồ còn mình và [[A Thuật]] đưa quân thẳng tiến vào Lâm An. Cả thành Lâm An chấn động. Triều đình lo sợ, ba thái học sinh cùng đa số quần thân liên danh đề nghị sư tướng đốc quân. [[Giả Tự Đạo]] bị thúc ép, đành phải chấp nhận. Thái hậu hạ chiếu cho [[Giả Tự Đạo]], [[Tôn Hổ Thần]] dẫn quân, mở kho lấy 10 vạn lạng vàng, 50 vạn lạng bạc, 1000 vạn tiến chuyển sang kho đô đốc để tiện sử dụng; lại hạ lệnh thiên hạ cần vương<ref name="TS47" /><ref name="TTTTG180" />. Sau đó lấy [[Cao Đạt]] làm Hồ Bắc chế trí sứ. Lúc này Hoàng châu và Kì chầu đã đầu hàng người Nguyên<ref name="TTTTG181">''[[Tục tư trị thông giám]]'', [[:zh:s:續資治通鑑/卷181|quyển 181]].</ref>.
Nguyên chủ [[Hốt Tất Liệt]] lấy cớ [[Giả Tự Đạo]] bội ước, tcử [[Sử Thiên Trạch]] và [[Bá Nhan]] thống chế các lộ binh mã gồm 20 vạn quân, có hàng tướng [[Lưu Chỉnh]] và [[Lã Văn Hoán]] dẫn đường; tiến xuống phía nam. Về sau [[Sử Thiên Trạch]] bị bệnh phải quay về miến bắc, toàn bộ đại quân Nguyên do [[Bá Nhan]] chỉ huy. Tháng 9 ÂL năm đó, [[Bá Nhan]] hội quân ở Tương Dương, phân quân tam đạo cùng nhau tiến quân, chuẩn bị vượt sông. Đích thân Bá Nhan cùng với [[A Thuật]] và [[Trương Hoằng Phạm]] vượt Hán Thủy đánh vào Dĩnh châu, có [[Lã Văn Hoán]] làm tiên phong. [[Trương Thế Kiệt]] đóng quân ở Dĩnh ra sức chống cự khiến quân Nguyên không sao công phá được, cuối cùng chúng quyết định bỏ qua Dĩnh châu, tiếp tục xuôi dòng [[Trường Giang]] đánh và chiếm được Hoàng Gia Loan Bảo. Trong khi đó thì [[Sách Đa]] dẫn một đao quân từ Tảo Dương vào Không Sơn, [[Trạch Chiêu Thảo]] từ núi Lão Nha đánh Kinh Nam. Triều Tống bại hết trận này đến trận khác, sĩ khí sút kém hẳn.
 
Đầu năm [[1275]], quân Nguyên lại đánh vào Giang châu, tướng [[Trần Nghiêm Dạ]] bỏ trốn; [[Hồ Mộng Lân]] tự sát,thành Giang châu thất thủ., [[Phạm Văn Hổ]] lúc này là tri An Khánh quân cũnghàng đã đầu hànggiặc. [[Giả Tự Đạo]] trướcnấn đó mặtchưa dù đã nhận lệnhdám ra trận; đốc sư nhưng cứ nấn ná không dám đi. Đếnđến lúc [[Lưu Chỉnh]] chết, Tự Đạo nghĩ quân Nguyên không còn người dẫn đường bèn ra quân đánh giặc. Tập trung 13 vạn tinh binh cùng lên đường., Tự Đạosự liêntrợ hệgiúp với [[Lã Sư Quỳ]] bàn việc nghị hòa nhưng không được. Tháng 2 ÂL năm đó,của [[Hạ Quý]] đưa quân đến hội với Tự Đạo. Lại lấy [[Uông Lập Tín]] làm Giang Hoài chiêu thảo sứ, lệnh mộ binh ở Kiến Khang. Lập Tín nhận lệnh, đưa quân đến hội với Tự Đạo ở Vu Hồ. Tự Đạo sau đó cử [[Tống Kinh]] đến doanh trại quân Nguyên xin xưng thần, triều cống nhưng [[Bá Nhan]] không cho.
Tháng 11 ÂL, triều Tống lấy [[Vương Dược]], [[Chương Giám]] làm Tả Hữu thừa tướng; đó đều là quyết định của Giả Tự Đạo. Lúc này thì quân Nguyên chiếm Sa Dương, Tân Thành, Vân An, La Củng, Cao Dương, nhiều tướng tuẫn tiết. [[Bá Nhan]] tiến chiếm Phúc châu. Chỉ có Hoài Tây chế trí sứ [[Hạ Quỳ]] dùng vạn chiến thuyền đóng giữ ở các nơi hiểm yếu, Đô Thống chế [[Vương Đạt]] cầm cự ở Dương La Bảo, Kinh Hồ tuyên phủ sứ [[Chu Tự Tôn]] dùng quân du kích đánh địch mới tạm ngăn được bước tiến của quân Nguyên. Nhưng vận số của triều Tống đã hết, không thể chống giữ được bao lâu. Tháng 12 ÂL, Bá Nhan đưa quân từ Hán Khẩu, đánh bại quân Tống rồi đóng 10 vạn quân kị ở Giang Bắc, lại sai [[A Lí Hải Nhai]] cùng [[Trương Hoằng Phạm]] tiến đánh Dương La Bảo, đánh bại quân của Vương Đạt và Hạ Quý; sau đó [[A Thuật]] dẫn đại quân vượt Trường Giang, [[Hạ Quý]] phải bỏ chạy. Quân Nguyên phá được Dương La Bảo, [[Vương Đạt]] tử trận. [[Bá Nhan]] chuẩn bị lấy Kinh Hồ còn mình và [[A Thuật]] đưa quân thẳng tiến vào Lâm An. Cả thành Lâm An chấn động. Triều đình lo sợ, ba thái học sinh cùng đa số quần thân liên danh đề nghị sư tướng đốc quân. [[Giả Tự Đạo]] bị thúc ép, đành phải chấp nhận. Thái hậu hạ chiếu cho [[Giả Tự Đạo]], [[Tôn Hổ Thần]] dẫn quân, mở kho lấy 10 vạn lạng vàng, 50 vạn lạng bạc, 1000 vạn tiến chuyển sang kho đô đốc để tiện sử dụng; lại hạ lệnh thiên hạ cần vương<ref name="TS47" /><ref name="TTTTG180" />. Sau đó lấy [[Cao Đạt]] làm Hồ Bắc chế trí sứ. Lúc này Hoàng châu và Kì chầu đã đầu hàng người Nguyên<ref name="TTTTG181">''[[Tục tư trị thông giám]]'', [[:zh:s:續資治通鑑/卷181|quyển 181]].</ref>.
 
Sau đó quân Nguyên tiếp tục tiến quân, vây khốn Trì châu, tướng [[Triệu Mão]] tuẫn tiết. [[Giả Tự Đạo]] lựa chọn 7 vạn quân giao chosai [[TônHạ Hổ ThầnQuý]] chỉ huy, lệnh [[HạTôn QuýHổ Thần]] đemđi 2500 chiến thuyền theo đường sông tiến đánh quân Nguyêntrước, còn mình đóngLỗ Cảng làm hậuphía ứngsau. [[Tôn Hổ Thần]] ra trận thất lợi, [[Hạ Quý]] ngồi nhìn không cứu. [[Bá Nhan]] cho pháo bắn vào Trung quân, [[A Thuật]] cùng mấy ngàn tay chèo theo dòng nước đến sát bên thuyền quânQuân Tống. Tướngbị tiênđại phongbác bên Tống là [[Khương Tài]] liềubắn sứcphá chốngác trảliệt, Hổbị Thần sợ hãi, bỗng nhiên nhảy sang thuyền [[Khương Tài]]. Quân sĩ nghĩ Hổ Thần đã chạy nên rất hoảngrối loạn. [[Hạ Quý]] không đánh bỏthảm chạybại. [[Giả Tự Đạo]] cũng thu quân về Chu Kim Sa, giữa đường bị quân Nguyên đuổi riết, thương vong vô số. Tự Đạo hỏi kế Hạ Quý, [[Hạ Quý]] đề nghị rút quân về Dương châu, nghênh giá ra biển, còn mình sẽ ở lại giữ Hoài Tây. Tự Đạo bèn cùng [[Tôn Hổ Thần]] lui về Dương châu, cho treo cờ triệu tập ba quân mà chả ai thèm đến<ref name="TTTTG181" />. Quân Nguyên đánh vào Nhiêu châu, Lâm Giang, Trấn Giang, Ninh Quốc, Long Hưng, Giang Âm, các châu Thái Bình, Hòa châu lần lượt bị mất.
Đầu năm [[1275]], quân Nguyên lại đánh vào Giang châu, tướng [[Trần Nghiêm Dạ]] bỏ trốn; [[Hồ Mộng Lân]] tự sát, Giang châu thất thủ. [[Phạm Văn Hổ]] lúc này là tri An Khánh quân cũng đã đầu hàng. [[Giả Tự Đạo]] trước đó mặt dù đã nhận lệnh ra trận đốc sư nhưng cứ nấn ná không dám đi. Đến lúc [[Lưu Chỉnh]] chết, Tự Đạo nghĩ quân Nguyên không còn người dẫn đường bèn ra quân đánh giặc. Tập trung 13 vạn tinh binh cùng lên đường. Tự Đạo liên hệ với [[Lã Sư Quỳ]] bàn việc nghị hòa nhưng không được. Tháng 2 ÂL năm đó, [[Hạ Quý]] đưa quân đến hội với Tự Đạo. Lại lấy [[Uông Lập Tín]] làm Giang Hoài chiêu thảo sứ, lệnh mộ binh ở Kiến Khang. Lập Tín nhận lệnh, đưa quân đến hội với Tự Đạo ở Vu Hồ. Tự Đạo sau đó cử [[Tống Kinh]] đến doanh trại quân Nguyên xin xưng thần, triều cống nhưng [[Bá Nhan]] không cho.
 
Sau đó quân Nguyên tiếp tục tiến quân, vây khốn Trì châu, tướng [[Triệu Mão]] tuẫn tiết. [[Giả Tự Đạo]] lựa chọn 7 vạn quân giao cho [[Tôn Hổ Thần]] chỉ huy, lệnh [[Hạ Quý]] đem 2500 chiến thuyền theo đường sông tiến đánh quân Nguyên, còn mình đóng ở Lỗ Cảng làm hậu ứng. [[Tôn Hổ Thần]] ra trận thất lợi, [[Hạ Quý]] ngồi nhìn không cứu. [[Bá Nhan]] cho pháo bắn vào Trung quân, [[A Thuật]] cùng mấy ngàn tay chèo theo dòng nước đến sát bên thuyền quân Tống. Tướng tiên phong bên Tống là [[Khương Tài]] liều sức chống trả, Hổ Thần sợ hãi, bỗng nhiên nhảy sang thuyền [[Khương Tài]]. Quân sĩ nghĩ Hổ Thần đã chạy nên rất hoảng loạn. [[Hạ Quý]] không đánh mà bỏ chạy. [[Giả Tự Đạo]] cũng thu quân về Chu Kim Sa, giữa đường bị quân Nguyên đuổi riết, thương vong vô số. Tự Đạo hỏi kế Hạ Quý, [[Hạ Quý]] đề nghị rút quân về Dương châu, nghênh giá ra biển, còn mình sẽ ở lại giữ Hoài Tây. Tự Đạo bèn cùng [[Tôn Hổ Thần]] lui về Dương châu, cho treo cờ triệu tập ba quân mà chả ai thèm đến<ref name="TTTTG181" />. Quân Nguyên đánh vào Nhiêu châu, Lâm Giang, Trấn Giang, Ninh Quốc, Long Hưng, Giang Âm, các châu Thái Bình, Hòa châu lần lượt bị mất.
 
[[Giả Tự Đạo]] dâng sớ xin dời đô, thái hoàng thái hậu không theo, đến tháng 3 ÂL [[Hàn Chấn]] cũng dâng biểu, thái hoàng thái hậu mới triệu tập quần thần bàn định. Tể tướng [[Vương Dược]] muốn cố thủ, [[Hàn Chấn]] phản đối và bỏ đi. Khi đó có thái học sinh dâng biểu xin tử thủ Lâm An, việc dời đô mới phải hoãn lại. Lúc này chư lộ vẫn bất động chờ thời, không dám đưa quân cần vương, chỉ có [[Lý Đình Chi]], [[Trương Thế Kiệt]], [[Văn Thiên Trường]], [[Lý Phất]] đem quân về cứu. Thế Kiệt đưa quân lấy lại Nhiêu châu thì [[Trần Nghi Trung]] nghi ngờ Thế Kiệt nên dời ông tới điều khiển tân quân. Hữu thừa tướng [[Chương Giám]] bỏ trốn<ref name="TS47" />, triều đình lấy [[Trần Nghi Trung]] tri Xu mật viện sự.
 
=== Giả Tự Đạo thất thế ===
Quân Nguyên đánh vào Gia Định, đô thống [[Hầu Hưng Lực]] tử trận. Rồi Bá Nhan kéo quân vào Kiến Khang và nhận hàng thành này. [[Uông Lập Tín]] lui về Cao Bưu tính kế giữ Giang Hán, nhưng gần hết các châu Giang Hán lúc này đã hàng Nguyên. Lập Tín viết biểu báo tạ tam cung, không lâu sau qua đời. [[Bá Nhan]] chiếm được Kiến Khang và chiêu hàng được Quảng Đức quân, Từ châu, Ninh Quốc, Hàng Hưng, Hòa châu, Vô Vi quân, Liên châu, Thường châu, phủ Bình Giang. Lúc này [[Giả Tự Đạo]] bí thế, đã phải xin trả lại ấn tín. [[Trần Nghi Trung]] tưởng Tự Đạo đã chết nên dâng sớ kể tội. Thái hoàng thái hậu miễn chức Bình chương chính sự của Tự Đạo, giáng Lễ Toàn quan sứ. Mọi việc làm hại dân của Tự Đạo trước kia đều xóa bỏ, ruộng trả về điền chủ.
 
Quân Nguyên đánhnhanh vàochóng Giachiếm Định,được đôĐông thống [[Hầu Hưng Lực]] tử trận. Rồi Bá Nhan kéo quân vàoKinh Kiến Khang và nhận hàng thành này. [[Uông Lập Tín]] lui về Cao Bưu tính kế giữ Giang Hán, nhưng gần hết các châu Giang Hán lúc này đã hàng Nguyên. Lập Tín viết biểu báo tạ tam cung, không lâu sau qua đời. [[Bá Nhan]] chiếm được Kiến Khang và chiêu hàng được Quảng Đức quân, Từ châu, Ninh Quốc, Hàng Hưng, Hòa châu, Vô Vi quân, Liên châu, Thường châu, phủ Bình Giang. Lúc này [[Giả Tự Đạo]] bí thế, đã phải xin trả lại ấn tín. [[Trần Nghi Trung]] tưởng Tự Đạo đã chết nên dâng sớ kể tội. Thái hoàng thái hậu miễn chức Bình chương chính sự của Tự Đạo, giáng Lễ Toàn quan sứ. Mọi việc làm hại dân của Tự Đạo trước kia đều xóa bỏ, ruộng trả về điền chủ.
Triều đình dùng [[Vương Dược]] làm Tả thừa tướng, [[Trần Nghi Trung]] làm Hữu thừa tướng; Đô đốc chư lộ quân mã. Lại theo sự tố cáo của ngự sử [[Vương Ứng Lân]], tước quan chức của [[Chương Giám]]. Thị ngự sử [[Trần Quá]], giám sát ngự sử [[Phan Văn Khanh]]... xin giết [[Giả Tự Đạo]] và trị tội đám bè đảng. Thái hoàng thái hậu cho giam [[Ông Ứng Long]] vào ngục rồi đánh trượng đày ra Cát Dương quân, bãi chức [[Oánh Trung]], [[Vương Đình]], [[Lưu Lương Quý]], [[Trần Bá Đại]], [[Du Vấn]], [[Chu Tuấn]], [[Đổng Phác]]..., phóng thích những người bị Tự Đạo hãm hại, phục quan chức cho [[Ngô Tiềm]] và [[Hướng Sĩ Bích]]. Lại sai người đến chỗ [[Lã Văn Phúc]] lệnh đem quân về bảo vệ Lâm An, Văn Phúc chém sứ giả, không nhận lệnh, sau đó hàng Nguyên. Quân Nguyên đã tới rất gần, toàn thành Lâm An được đặt trong tình trạng giới nghiêm, các đại thần lần lượt bỏ trốn. Thái hoàng thái hậu thấy vậy, tự tay viết chiếu răn đe
:''Triều ta trải qua được 300 trăm nay có dư, đó là do sĩ đại phu biết giữ lễ. Nay ta và tự quân trong tình thế nguy cấp thế này mà chưa hề thấy đại thần nào đóng góp công sức hay kế hay để cứu nước. Bên trong thì quan lại lần lượt bỏ đi, ngoài thì biên tướng vứt ấn bỏ thành, tai nghe mắt thấy những điều đó thật là đau lòng thay. Chấp chánh không biết dâng biểu bày mưu mà lại lo co giò bỏ chạy, đó là việc làm của những kẻ mà ngày thường đọc sách thánh hiền sao? Nếu cứ như vậy mà ở trên đời, sống còn mặt mũi đâu mà nhìn người, chết rồi lấy mặt mũi đâu mà nhìn tiên đế. Thiên mệnh chưa đổi, quốc pháp vẫn còn; những văn võ đại thần trong triều phụ lòng quốc gia mà bỏ trốn, thì quan ngự sử hãy giết chết để răn đe.''
 
ChiếuTriều banđình dùng [[Vương Dược]], [[Trần Nghi Trung]] là Tả, Hữu thừa tướng.Thị ngự sử [[Trần Quá]], giám sát ngự sử [[Phan Văn Khanh]]... xin giết [[Giả Tự Đạo]] và trị tội đám bè đảng. Thái hoàng thái hậu cho giam [[Ông Ứng Long]] vào ngục rồi đánh trượng đày ra Cát Dương quân, bãi chức [[Oánh Trung]], [[Vương Đình]], [[Lưu Lương Quý]], [[Trần Bá Đại]], [[Du Vấn]], [[Chu Tuấn]], [[Đổng Phác]]..., phóng thích những người bị Tự Đạo hãm hại, phục quan chức cho [[Ngô Tiềm]] và [[Hướng Sĩ Bích]]. Lại sai người đến chỗ [[Lã Văn Phúc]] lệnh đem quân về bảo vệ Lâm An, Văn Phúc chém sứ giả, không nhận lệnh, sau đó hàng Nguyên. Quân Nguyên đã tới rất gần, toàn thành Lâm An được đặt trong tình trạng giới nghiêm, các đại thần lần lượt bỏ trốn. Thái hoàng thái hậu thấy vậy, tự tay viết chiếu răn đe nhưng tình trạng quan lại bỏ trốn cũng không sao ngăn cấm được<ref name="TTTTG181" />. Lúc này quân Nguyên tóm gọn Lạc châu. Triều đình lại phải hạ lệnh xá miễn cho những tướng đã hàng giặc, ra điều kiện nếu ai thu phục lại được 1 châu sẽ cho làm tri châu, thu phục lại 1 huyện cho làm tri huyện, sở bộ liêu lại và tướng sĩ, thổ hào theo giúp đều có thưởng, nhưng chẳng ai hưởng ứng. Quân Nguyên nhanh chóng chiếm được Lạc châu, Trừ châu, Chân châu, phủ Ninh Quốc, Quảng Đức quân và cả phủ Giang Lăng.
 
Vào tháng 7 ÂL, thai gian thị thần và ba thái học sinh xin giết [[Giả Tự Đạo]], thái hoàng thái hậu không theo. Tự Đạo dâng biểu xin bảo toàn tính mạng và đổ tội cho [[Hạ Quý]], [[Tôn Hổ Thần]]. Triều đình bắt [[Giả Tự Đạo]] phải về đất Việt chịu tang mẹ, Tự Đạo nấn ná ở Dương châu không đi. [[Vương Dược]] dâng sớ kể tội Tự Đạo bất trung bất hiếu; thái hoàng thái hậu hạ lệnh giáng Tự Đạo ba cấp quan, đày ra Vụ châu rồi phủ Kiến Ninh. Triều đình lại hạ lệnh chém đầu [[Ông Ứng Long]], đày [[Vương Đình]], [[Oánh Trung]] ra Lĩnh Nam<ref name="TTTTG181" />. Lại giáng Tự Đạo làm Cao châu Đoàn luyện sứ, phát vãng ra Tuần châu, tịch biên gia sản. Phúc vương Dữ Nhuế vốn oán Tự Đạo, nên sai [[Trịnh Hổ Thần]] làm giám áp ban lo việc áp giải rồi thừa cơ giết chết Tự Đạo trên đường<ref>[[Tống sử]]'', [[:zh:s:宋史/卷474|quyển 474]]</ref>. Lúc này hai tể tướng xin từ chức, thái hoàng thái hậu cố lưu lại, phong [[Vương Dược]] là Bình chương quân quốc trọng sự, một tháng hai lần tới Kinh diên, năm ngày lên triều một lần; [[Trần Nghi Trung]], [[Lưu Mộng Viêm]] đổi làm Tả, Hữu thừa tướng kiêm Xu mật sứ, đô đốc chư lộ quân mã. [[Vương Dược]] đề nghị cho hai tể tướng ra đốc sư Ngô Môn, [[Trần Nghi Trung]] tìm cớ trì hoãn. Lúc này đại thần [[Lưu Cửu Cao]] dâng sớ kể tội Nghi Trung là bè đảng của [[Giả Tự Đạo]] và làm hỏng việc nước, Nghi Trung tức giận bỏ đi. [[Lưu Cử Cao]] liền bị tống vào ngục, thái hoàng thái hậu bảo mẹ Nghi Trung là Dương thị gọi NghuNghi Trung về. Còn [[Vương Dược]] xin bãi chức Bình chương, được đổi phong thiếu bảo, Quan Văn điện học sĩ, Lễ tuyền quan sứ, ít lâu sau thì qua đời. [[Trương Thế Kiệt]] được cử làm Tổng đô đốc phủ chư quân, chống cự với quân Nguyên, [[Hạ Quý]] làm Xu mật phó sứ, Lưỡng Hoài tuyên phủ đại sứ; [[Chu Hoán]] hỗ trợ, [[Lý Đình Chi]] được lệnh về triều. [[Hạ Quý]] không phụng chiếu, Đình Chi không về. [[Trần Văn Long]] trở thành đồng Thiêm thư Xu mật viện sự thay cho [[Cao Tư Đắc]], [[Văn Thiên Trường]] là Binh bộ thượng thư. Quân Nguyên lúc này đã tới rất gần. Khi đó quân Tống có thu phục lại một số đất đai nhưng chẳng thấm tháp vào đâu so với các phần đã bị mất.
 
=== Liên tiếp thất bại ===
Triều đình cử [[Văn Thiên Trường]] làm Đô đốc phủ tham tán quân, tổng tam lộ binh, tri Bình Giang. Thiên Trường xin lập ra bốn trấn, [[Trần Nghi Trung]] không cho. Lúc này thì [[Bá Nhan]] chia quân tiến vào Lâm An. Thái châu thất thủ, [[Tôn Hổ Thần]] tự sát. [[Khương Tài]] ở Dương châu đem 5000 quân kị công quân Nguyên ở Loan Đầu bảo nhưng bị [[A Thuật]] đánh bại. Quân Nguyên nhận hàng Lữ Thành rồi đánh tiếp Thường châu. Triều đình dùng [[Trương Thế Kiệt]] làm Duyện Giang chiêu thảo sứ, [[Lưu Sư Dũng]] làm Phúc châu quan sát sứ, tổng thống xuất thú binh. Vào tháng 10 ÂL, [[Lưu Mộng Viêm]] và [[Trần Nghi Trung]] được phong làm Tả, Hữu thừa tướng<ref name="TTTTG182">''[[Tục tư trị thông giám]]'', [[:zh:s:續資治通鑑/卷182|quyển 182]].</ref> Lúc đó các châu quận Giang Tây lần lượt thất thủ. Vào cuối năm [[1275]], Thường châu thất thủ. Quân Nguyên lại đánh Độc Tùng quan, tướng [[Trương Nhu]] bỏ trốn. [[Văn Thiên Trường]] và [[Vương Thế Kiệt]] tính kế, coi Hoài đông là tường chẳn, quyết giữ bằng được Mân, Quảng để tính kế khôi phục. [[Trần Nghi Trung]] lại không chấp nhận. Tả thừa tướng [[Lưu Mộng Viêm]] lúc này bỏ trốn luôn, triều đình dùng [[Ngô Kiên]] làm Thiêm thư Xu mật viện sự, [[Trần Văn Long]] làm Tham tri chính sự, [[Hoàng Dung]] kiêm Quyền tham tri chính sự. Sau đó [[Ngô Kiên]] được phong lên chức Tả thừa tướng thay cho [[Lưu Mộng Viêm]].
 
[[Trương Thế Kiệt]] được cử làm Tổng đô đốc phủ chư quân, chống cự với quân Nguyên, [[Hạ Quý]] làm Xu mật phó sứ, Lưỡng Hoài tuyên phủ đại sứ; [[Chu Hoán]] hỗ trợ, [[Lý Đình Chi]] được lệnh về triều. [[Hạ Quý]] không phụng chiếu, Đình Chi không về. [[Trần Văn Long]] trở thành đồng Thiêm thư Xu mật viện sự thay cho [[Cao Tư Đắc]], [[Văn Thiên Trường]] là Binh bộ thượng thư. Quân Nguyên lúc này đã tới rất gần. Khi đó quân Tống có thu phục lại một số đất đai nhưng chẳng thấm tháp vào đâu so với các phần đã bị mất.
 
Triều đình cử [[Văn Thiên Trường]] làmra Đôtrấn đốc phủ tham tán quân, tổng tam lộ binh, trithủ Bình Giang. ThiênCác Trường xin lập ra bốn trấn, [[Trần Nghi Trung]] không cho. Lúc này thì [[Bá Nhan]] chia quân tiến vào Lâm An. Thái châu thất thủ,tướng [[Tôn Hổ Thần]] tự sát., [[Khương Tài]] lần Dươnglượt châu đem 5000 quân kịbị côngchết; quân Nguyên chiếm LoanThái Đầuchâu, bảoLữ nhưngThành, bịThường [[Achâu, Thuật]]chia đánhquân bại.vào QuânLâm Nguyên nhận hàng Lữ Thành rồi đánh tiếp Thường châuAn. Triều đình dùng [[Trương Thế Kiệt]] làm Duyện Giang chiêu thảo sứ, [[Lưu Sư Dũng]] làm Phúc châu quan sát sứ, tổng thống xuất thúra binhtrận. Vào tháng 10 ÂL, [[Lưu Mộng Viêm]] và [[Trần Nghi Trung]] được phong làm Tả, Hữu thừa tướng<ref name="TTTTG182">''[[Tục tư trị thông giám]]'', [[:zh:s:續資治通鑑/卷182|quyển 182]].</ref> Lúc đó các châu quận Giang Tây lần lượt thất thủ. Vào cuối năm [[1275]], Thường châu thất thủ. Quân Nguyên lại đánh Độc Tùng quan, tướng [[Trương Nhu]] bỏ trốn.; [[Văn Thiên Trường]] và [[Vương Thế Kiệt]] tính kế, coi Hoài đông là tường chẳn, quyết giữ bằng được Mân, Quảng để tính kế khôi phục. [[Trần Nghi Trung]] lại không chấp nhận. Tả thừa tướng [[Lưu Mộng Viêm]] lúc này bỏ trốn luôn, triều đình dùng [[Ngô Kiên]] làm Thiêm thư Xu mật viện sự, [[Trần Văn Long]] làm Tham tri chính sự, [[Hoàng Dung]] kiêm Quyền tham tri chính sự. Sau đó [[Ngô Kiên]] được phong lên chức Tả thừa tướng thay cho [[Lưu Mộng Viêm]]chức.
 
Đầu năm [[1276]], [[Bá Nhan]] tiến chiếm Bình Giang, [[Trương Thế Kiệt]] đưa quân về triều hộ vệ. Triều đình bắt đầu tính việc nghị hòa. [[Trần Nghi Trung]] sai [[Lục Tú Phu]], [[Lã Sư Mạnh]] cùng [[Liễu Nhạc]] đến trại quân Nguyên xin nghị hòa, xưng nước bác nước cháu, nếu không thì là nước ông nước cháu chỉ xin bãi binh, [[Bá Nhan]] không nghe. Nghi Trung lại xin thái hoàng thái hậu dâng biểu cầu phong, xưng thần, cắt đất nộp thuế là 25 vạn, thái hậu đành phải chấp nhận. Khi đó Đàm châu đã thất thủ, Hồ Nam trấn phủ đại sứ [[Lý Phất]] tử tiết, quân Nguyên đã ở trước thành Lâm An. [[Trần Văn Long]], [[Hoàng Dung]] cùng nhau bỏ trốn, triều đình lúc này chẳng còn bao nhiêu người.
 
=== Lâm An thất thủ ===
Thái hoàng thái hậu sai Giám sát ngự sử [[Lưu Ba]] sang gặp Bá Nhan xin xưng thần, dâng tôn hiệu cho Nguyên chủ, cống nạp bạc lụa mỗi thứ 25 vạn, [[Bá Nhan]] không chịu, đòi vua tôi [[nhà Tống]] ra hàng. [[Văn Thiên Trường]] xin dùng Cát vương, Tín vương ra trấn giữ Mân Quảng để tính việc khôi phục. Ban đầu thái hoàng thái hậu không chịu, đến đây tông thất nhiều người cầu xin nên mới chấp nhận, đổi [[Tống Đoan Tông|Cát vương Thị]] là Ích vương giữ Phúc châu, [[Tống đế Bính|Tín vương Bính]] làm Quảng vương giữ Tuyền châu, có phò mã đô úy [[Dương Trấn]], em Dương thục phi là [[Dương Lượng Tiết]], em Du tu dung là [[Du Như Khuê]] theo giúp hai vương<ref name="TTTTG182" />. [[Trần Nghi Trung]] dẫn đầu quần thần xin dời đô, thái hoàng thái hậu ban đầu không nghe nhưng sau suy nghĩ lại nên cho triệu Nghi Trung, Nghi Trung lại không đến. [[Văn Thiên Trường]], [[Trương Thế Kiệt]] bàn việc tam cung ra biển, Nghi Trung từ chối và xin thái hoàng thái hậu sai giám sát ngự sử [[Dương Ứng Khuê]] đem ngọc tỉ truyền quốc đầu hàng, đồng ý bỏ đế hiệu chỉ xin bảo toàn tông miếu. [[Bá Nhan]] triệu [[Trần Nghi Trung]] đến bàn việc hàng phục nhưng ngay đêm đó Nghi Trung đã bỏ chạy về Ôn châu. [[Trương Thế Kiệt]], [[Tô Lưu Nghĩa]] và [[Lưu Sư Dũng]] thấy triều đình chưa đánh đã hàng thì thất vọng, lên thuyền ra biển. Thái hoàng thái hậu cử [[Văn Thiên Trường]] làm Hữu thừa tướng kiêm Xu mật sứ, đô đốc chư lộ quân mã và để hai tướng Ngô, Văn sang Nguyên bàn bạc. Thiên Trường gặp Bá Nhan và nói
 
Thái hoàng thái hậu sai Giám sát ngự sử [[Lưu Ba]] sang gặp Bá Nhan xin xưng thần, dâng tôn hiệu cho Nguyên chủ, cống nạp bạc lụa mỗi thứ 25 vạn, [[Bá Nhan]] không chịu, đòi vua tôi [[nhà Tống]] ra hàng. [[Văn Thiên Trường]] xin dùng Cát vương, Tín vương ra trấn giữ Mân Quảng để tính việc khôi phục. Ban đầu thái hoàng thái hậu không chịu, đến đây tông thất nhiều người cầu xin nên mới chấp nhận, đổi [[Tống Đoan Tông|Cát vương Thị]] là Ích vương giữ Phúc châu, [[Tống đế Bính|Tín vương Bính]] làm Quảng vương giữ Tuyền châu, có phò mã đô úy [[Dương Trấn]], em Dương thục phi là [[Dương Lượng Tiết]], em Du tu dung là [[Du Như Khuê]] theo giúp hai vương<ref name="TTTTG182" />. [[Trần Nghi Trung]] dẫn đầu quần thần xin dời đô, thái hoàng thái hậu ban đầu không nghe nhưng sau suy nghĩ lại nên cho triệu Nghi Trung, Nghi Trung lại không đến. [[Văn Thiên Trường]], [[Trương Thế Kiệt]] bàn việc tam cung ra biển, Nghi Trung từ chối và xin thái hoàng thái hậu sai giám sát ngự sử [[Dương Ứng Khuê]] đem ngọc tỉ truyền quốc đầu hàng, đồng ý bỏ đế hiệu chỉ xin bảo toàn tông miếu. [[Bá Nhan]] triệu [[Trần Nghi Trung]] đến bàn việc hàng phục nhưng ngay đêm đó Nghi Trung đã bỏ chạy về Ôn châu. [[Trương Thế Kiệt]], [[Tô Lưu Nghĩa]] và [[Lưu Sư Dũng]] thấy triều đình chưa đánh đã hàng thì thất vọng, lên thuyền ra biển. Thái hoàng thái hậu cử [[Văn Thiên Trường]] làm Hữu thừa tướng kiêm Xu mật sứ, đô đốc chư lộ quân mã và để hai tướng Ngô, Văn sang Nguyên bàn bạc. Thiên Trường gặp Bá Nhan và nói
:''Bắc triều nếu coi Tống là một nước thì xin lui quân về Bình Giang hoặc Gia Hưng sau sẽ bàn tới việc khao sư triều cống. Bắc quân nếu toàn quân về nước là thượng sách. Nhược bằng muốn hủy tông miếu triều ta thì Hoài, Chiết, Mân, Quảng, dễ gì mà lấy được, có khi lại mang họa, thắng thua còn chưa biết''.
 
Bá Nhan giữ Thiên Trường lại và để [[Ngô Kiên]] ra về, sai [[Mông Cổ Đại]], [[Phạm Văn Hổ]] vào thành Lâm An quản lí công việc. Cử [[Trình Bằng Phi]] ép thái hoàng thái hậu đầu hàng<ref name="TTTTG182" />. Tạ thái hậu sai [[Ngô Kiên]] làm Tả thừa tướng, [[Giả Dư Khánh]] làm Hữu thừa tướng và [[Gia Huyễn Ông]] đến gặp Bá Nhan xin sang Nguyên gặp Nguyên chủ. Bá Nhan để [[Ngô Kiên]] cùng [[Văn Thiên Trường]] lên bắc, còn mình đưa quân đến [[sông Tiền Đường]]. Thái hoàng thái hậu trong cung ngày đêm cầu khấn xin thần linh cho nước sông Tiền Đường dìm chết lũ quân Nguyên, nhưng lạ thay sóng lặng hơi trong ba ngày<ref name=TS47 />. Sau đó ít lâu, [[Bá Nhan]] đưa quân tiến vào trong thành Lâm An, lệnh tả hữu tuần thú trong thành, thu hết cổn miện, khuê bích, phù tỉ cùng các đồ vật trong cung, bảo ngoạn, xa lộ, liễn thừa, lỗ bộ, huy trượng... Bá Nhan lên núi Sư Tử, Vân Phong ngắm nhìn toàn cảnh Lâm An. Lại, sai [[Phạm Văn Hổ]] truy đuổi Ích vương và Cát vương ở Mân Quảng. [[Dương Trấn]] trở về Lâm An, Phúc vương Dữ Nhuế từ Thiệu Hưng tới, Bá Nhan dùng lời lẽ phủ dụ.
 
Thái hoàng thái hậu và Cung Đế muốn gặp Bá Nhan nhưng Bá Nhan nói mình chưa vào triều thì chưa nên làm lễ tương kiến. Sau đó sai Tháp Ha và Mạnh Kì vào cung tuyên chiếu của Nguyên chủ đưa Cung Đế và thái hậu lên bắc. Thái hậu khóc, bảo Cung Đế bái tạ, sau đó Cung Đế, Toàn thái hậu, [[Triệu Dữ Nhuế|Phúc vương Dữ Nhuế]], Nghi vương Dữ Du, Độ Tông mẫu Long Quốc phu nhân Hoàng thị cùng [[Dương Trấn]], [[Tạ Đường]], [[Cao Ứng Tùng]] và ba thái học sinh cùng ra khỏi cung, lên miền bắc. Riêng thái hoàng thái học tuổi đã cao thì được ở lại Lâm An. Đó là ngày [[4 tháng 2]] năm [[1276]]. Các đại thần triều Tống ở miền nam về sau hợp sức chống Nguyên, lập ra một triều đình lưu vong do [[Tống Đoan Tông]] Triệu Thị và sau đó là [[Tống đế Bính]] đứng đầu, tiếp tục chiến đấu với quân Nguyên và tồn tại đến năm [[1279]] thì bị diệt. Đó cũng là lúc kết thúc triều đại [[nhà Tống]]. Còn theo ý kiến của sử gia [[Tất Nguyên]] trong [[Tục tư trị thông giám]] thì triều Tống kết thúc từ đây, hai vị vua còn lại không được công nhận là [[hoàng đế Trung Hoa]].
 
== Cuộc sống ở Nguyên ==