Khác biệt giữa bản sửa đổi của “SMS Scharnhorst”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Dòng 109:
[[File:Battle of Coronel map.svg|thumb|right|300px|Sự di chuyển của các chiến hạm trong trận Coronel. Tàu Anh được hiển thị bằng màu đỏ; Tàu Đức bằng màu xanh lam.|alt=The British and German fleets converged from the south and north, respectively. Two British ships split off to escape.]]
{{chính|Trận Coronel}}
Để đối đầu lại với hải đội Đức ngoài khơi bờ biển [[Nam Mỹ]], [[Hải quân Hoàng gia Anh]] chỉ có những nguồn lực hiếm hoi; dưới quyền chỉ huy của [[Chuẩn Đô đốc|Chuẩn đô đốc]] [[Christopher Cradock]] là các tàu tuần dương bọc thép ''[[HMS Good Hope (1901)|Good Hope]]'' và ''[[HMS Monmouth (1901)|Monmouth]]'', tàu tuần dương hạng nhẹ ''[[HMS Glasgow (1909)|Glasgow]]'' và tàu tuần dương phụ trợ ''[[HMS Otranto|Otranto]]''. Hải đội này còn được tăng cường bởi chiếc [[thiết giáp hạm tiền-dreadnought]] cũ ''[[HMS Canopus (1897)|Canopus]]'' và chiếc tàu tuần dương bọc thép ''[[HMS Defence (1907)|Defence]]'', tuy nhiên chiếc cuối cùng này chỉ đến nơi sau khi [[trận Coronel]] đã kết thúc.<ref>{{Harvnb|Herwig|1998|p=156}}</ref> ''Canopus'' bị Cradock cho để lại phía sau, vì ông e ngại tốc độ chậm của nó sẽ ngăn trở việc đối đầu hiệu quả với các con tàu Đức.<ref name=H92>{{Harvnb|Halpern|1995|p=92}}</ref> Chiều tối ngày [[26 tháng 10]], ''Scharnhorst'' cùng với phần còn lại của hải đội khởi hành từ [[đảo Alejandro Selkirk|Mas a Fuera]], Chile, hướng sang phía Đông. Spee biết được ''Glasgow'' bị phát hiện đang ở tại [[Coronel, Chile|Coronel]] vào ngày [[31 tháng 10]], nên quay mũi về phía cảng này.<ref name=H92/>
Vào lúc 18:07, khoảng cách giữa hai hải đội lúc này đã giảm xuống chỉ còn {{convert|13500|m|abbr=on}} và Spee ra lệnh cho chiến hạm của mình chuẩn bị khai hỏa ba mươi phút sau; mỗi tàu giao chiến với tàu đối diện nó ở bên phía Anh.{{sfn|Staff|p=33}} Scharnhorst đối đầu với Good Hope và bắn trúng nó trong loạt đạn thứ ba, viên đạn rơi ở khu vực giữa tháp pháo phía trước và tháp chỉ huy khiến một đám cháy lớn bùng lên. Một khi các pháo thủ Đức phát hiện tàu đối phương đã nằm trong tầm bắn, họ bắt đầu nã đạn một cách mau lẽ, cứ mỗi mười lăm giây một loạt đạn nổ.{{sfn|Staff|pp=33–34}} ''Oberleutnant zur See'' ([[Đại úy|Đại úy Hải quân]]) Knoop, một sĩ quan nhận dạng tàu đối phương trên chiếc ''Scharnhorst''
Trong khi chờ đợi, ''Glasgow'' bắt đầu bắn cả ''Scharnhorst'' lẫn ''Gneisenau'', kể từ khi nó không còn có thể đối dầu với các tàu tuần dương hạng nhẹ khác của Đức. Một trong những viên đạn {{convert|4|in|adj=on}} trúng vào phần trước của ''Scharnhorst'' nhưng lại
[[File:Ostasiengeschwader Graf Spee in Chile.jpg|left|thumb|300px|Hải đội Đức rời [[Valparaíso]] vào ngày 3 tháng 11 sau trận chiến, dẫn đầu là ''Scharnhorst'' và ''Gneisenau'' và''Nürnberg'' theo sau. Ở cự ly gần hơn là [[Tàu tuần dương Chile Esmeralda (1895)|''Esmeralda'']], [[Tàu tuần dương Chile O'Higgins (1897)|''O'Higgins'']] và [[Tàu tuần dương Chile Blanco Encalada|''Blanco Encalada'']] và chiếc thiết giáp hạm cũ [[Thiết giáp hạm Chile Capitán Prat|''Capitán Prat'']]|alt=A group of large warships steaming slowly off a city.]]
|