Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Mạnh Tử”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Tomorono (thảo luận | đóng góp)
Không có tóm lược sửa đổi
Cheers!-bot (thảo luận | đóng góp)
n clean up, replaced: {{Commonscat → {{thể loại Commons using AWB
Dòng 31:
'''Mạnh Tử''' ([[chữ Hán]]: 孟子; bính âm: Mèng Zǐ; 372–289 trước [[công Nguyên|công nguyên]]; có một số tài liệu khác ghi là: 385–303 hoặc 302 TCN) là nhà triết học [[Trung Quốc]] và là người tiếp nối [[Khổng Tử]].
 
Mạnh Tử, tên là '''Mạnh Kha''', tự là '''Tử Dư''', sinh vào đời vua Liệt Vương, [[nhà Chu]], quê gốc ở đất Trâu, thuộc nước Lỗ, nay là thành phố [[Trâu Thành]], tỉnh [[Sơn Đông]], Trung Quốc. Ông mồ côi cha, chịu sự nuôi dạy nghiêm túc của mẹ là Chương thị (người đàn bà họ Chương). Chương thị sau này được biết tới với cái tên Mạnh mẫu (mẹ của Mạnh Tử). Mạnh mẫu đã ba lần chuyển nhà để Mạnh Tử được ở trong môi trường xã hội tốt nhất cho việc học tập, tu dưỡng. Thời niên thiếu, Mạnh Tử làm môn sinh của [[Ngũ Tử Tư|Tử Tư]], tức là [[Khổng Cấp]], cháu nội của Khổng Tử. Vì vậy, ông chịu ảnh hưởng sâu sắc từ các tư tưởng [[Nho giáo|Khổng giáo]].
 
Mạnh Tử là đại biểu xuất sắc của Nho giáo thời [[Chiến Quốc]], thời kỳ nở rộ các nhà tư tưởng lớn với các trường phái như Pháp gia, Du thuyết, Nho gia, Mặc gia... (thời kỳ bách gia tranh minh) và cũng là thời kỳ mà các tập đoàn phong kiến tranh giành, xâu xé lẫn nhau gây ra các cuộc chiến tranh liên miên tranh giành lãnh địa làm chết hàng vạn người, dân tình vô cùng khổ sở. Trong hoàn cảnh lịch sử đó, Mạnh Tử phát triển thêm tư tưởng của Khổng Tử với chủ trương ''dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh'', ông cũng là người đưa ra thuyết tính thiện của con người rằng con người sinh ra đã là thiện rồi ''nhân chi sơ bản tính thiện'', tư tưởng này đối lập với thuyết tính ác của Tuân Tử rằng ''nhân chi sơ bản tính ác''. Ông cho rằng "kẻ lao tâm trị người còn người lao lực thì bị người trị". Học thuyết của ông gói gọi trong các chữ "Nghĩa", "Trí", "Lễ", "Tín". Ông đem học thuyết của mình đi truyền bá đến vua chúa các nước chư hầu như [[Tề Tuyên vương|Tề Tuyên Vương]] (nước Tề), Đằng Văn Công (nước Đằng), Lương Huệ Vương (nước Nguỵ)...nhưng không được áp dụng. Về cuối đời ông dạy học và viết sách, sách Mạnh Tử của ông là một trong những cuốn sách quan trọng của Nho giáo. Ông được xem là ông tổ thứ hai của nho giáo và được hậu thế tôn làm "Á thánh Mạnh Tử" (chỉ đứng sau Khổng Tử).
Dòng 66:
 
{{sơ khai nhân vật Trung Quốc}}
{{Commonscatthể loại Commons|Mencius}}
 
[[Thể loại:Nhà triết học Trung Quốc]]