Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Toni Braxton”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
AlphamaEditor, thêm ref thiếu nội dung,
GHA-WDAS (thảo luận | đóng góp)
n Bot: sửa lỗi chung, sửa các lỗi cú pháp và mã wiki theo WP:CHECKWIKI using AWB
Dòng 25:
'''Toni Michele Braxton''' (sinh ngày 7 tháng 10, 1967)<ref>{{chú thích báo|last=Taylor|first=Derrick Bryson|title=Happy 45th Birthday, Toni Braxton!|url=http://www.essence.com/2012/10/07/happy-45th-birthday-toni-braxton/|accessdate=ngày 2 tháng 12 năm 2013|newspaper=[[Essence (magazine)|Essence]]|date=ngày 7 tháng 10 năm 2012}}</ref> là ca sĩ kiêm nhạc sĩ nhạc [[R&B đương đại|R&B]], nghệ sĩ dương cầm, nhà sản xuất âm nhạc, diễn viên, nhân vật truyền hình, và nhà từ thiện [[người Mỹ]]. Bắt đầu được biết đến vào những năm 1990, Braxton đã nhanh chóng trở thành một biểu tượng của dòng nhạc R&B và trở thành một trong những nữ nghệ sĩ bán chạy nhất của thập kỷ, cũng như nhận được danh hiệu cao quý "Nữ hoàng R&B" và được công nhận là một trong những giọng ca xuất sắc nhất của thế hệ này.
 
Album phòng thu đầu tay [[Toni Braxton (album)|mang chính tên cô]] được phát hành vào năm 1993. Nó đã bán được hơn 10 triệu bản trên toàn thế giới,<ref name="books.google.com">{{chú thích sách|url=http://books.google.com/books?id=ArUDAAAAMBAJ&pg=PA56&dq=toni+braxton+sold&hl=pt-BR&ei=kBKETJGqLoP98Ab5vb2aAg&sa=X&oi=book_result&ct=result&resnum=3&ved=0CDUQ6AEwAg#v=onepage&q=toni%20braxton%20sold&f=false |title=Jet&nbsp;– Google Livros |publisher=Books.google.com |date=ngày 17 tháng 7 năm 2000 |accessdate=ngày 12 tháng 11 năm 2010}}</ref> và sản sinh các hit nổi tiếng như "[[Another Sad Love Song]]" và "[[Breathe Again]]". Bên cạnh đó, album còn giúp Braxton giành ba [[giải Grammy]], bao gồm giải [[Giải Grammy cho Nghệ sĩ mới xuất sắc nhất|Nghệ sĩ mới xuất sắc nhất]].<ref name="YTV">{{chú thích web|url=http://tv.yahoo.com/toni-braxton/contributor/38261/awards|title=Toni Braxton|accessdate=ngày 26 tháng 12 năm 2006|work=Yahoo! TV|date=ngày 14 tháng 3 năm 2003}}</ref> Phát hành vào năm 1996, album thứ hai của cô, ''[[Secrets (album của Toni Braxton)|Secrets]]'', tiếp tục nhận được những sự ca ngợi và thành công lớn, bán được hơn 15 triệu bản trên toàn cầu.<ref name="books.google.com">{{cite book|url=http://books.google.com/books?id=ArUDAAAAMBAJ&pg=PA56&dq=toni+braxton+sold&hl=pt-BR&ei=kBKETJGqLoP98Ab5vb2aAg&sa=X&oi=book_result&ct=result&resnum=3&ved=0CDUQ6AEwAg#v=onepage&q=toni%20braxton%20sold&f=false |title=Jet&nbsp;– Google Livros |publisher=Books.google.com |date=July 17, 2000 |accessdate=November 12, 2010}}</ref> Album cho ra đời các đĩa đơn quán quân bảng xếp hạng [[Billboard Hot 100]] là "[[You're Makin' Me High]]" và "[[Un-Break My Heart]]", trong đó "Un-Break My Heart" đã trở thành bài hát thương hiệu của cô cũng như là đĩa đơn bán chạy thứ hai mọi thời đại bởi một nghệ sĩ nữ. Braxton đã giành hai giải Grammy cho ''Secrets''. Năm 2000, album thứ ba của cô, ''[[The Heat (album của Toni Braxton)|The Heat]]'', được phát hành. Nó đã bán được hơn 4 triệu bản và bao gồm đĩa đơn hit "[[He Wasn't Man Enough]]", giúp Braxton giành thêm một tượng vàng Grammy. Sau đó, cô phát hành thêm ba album nữa - ''[[More Than a Woman (album)|More Than A Woman]]'' (2002), ''[[Libra (album của Toni Braxton)|Libra]]'' (2005) và ''[[Pulse (album của Toni Braxton)|Pulse]]'' (2010), tuy nhiên cô đã phải đối mặt với những xung đột cá nhân và với hãng đĩa trong khoảng thời gian này. Trong năm 2014, Braxton và cộng tác viên lâu năm [[Babyface (nhạc sĩ)|Babyface]] phát hành một album song ca mang tên ''[[Love, Marriage & Divorce]]'', và giành được một giải Grammy vào đầu năm 2015.<ref>{{chú thích web|url=http://www.grammy.com/nominees |title=The Official Site of Music's Biggest Night |publisher=GRAMMY.com |date= |accessdate=2015-07-08}}</ref>
 
Trong suốt sự nghiệp của mình, Braxton đã bán được hơn 67 triệu bản, trong đó có 41 triệu album trên toàn thế giới.<ref>{{chú thích web|url=http://www.tonibraxton.com/bio/ |title=Toni Braxton Bio |publisher=Toni Braxton Official Website}}</ref> Cô đã giành được 7 [[giải Grammy]], 9 giải [[giải thưởng âm nhạc Billboard]], 7 [[giải thưởng Âm nhạc Mỹ]] cùng nhiều giải thưởng khác. Bên cạnh những thành công trong lĩnh vực âm nhạc, Braxton đã trở thành một giám đốc sản xuất và nhân vật truyền hình, tham gia vào chương trình thực tế ''[[Dancing with the Stars]]'' mùa thứ 7<ref>{{chú thích báo|title=Announcing the Stars|url=http://abc.go.com/primetime/dancingwiththestars/index?pn=announcement|work=abc.go.com|year=2008|accessdate=ngày 16 tháng 9 năm 2008}}</ref> và trong sê-ri truyền hình thực tế ''[[Braxton Family Values]]'', nơi Braxton làm điều hành sản xuất và ngôi sao chính từ năm 2011 trên [[WE tv]]. Braxton cũng tham gia điều hành sản xuất chương trình với em gái Tamar - The [[Tamar & Vince]] trên WE tv. Ngày 18 tháng 9 năm 2011, Braxton đã được giới thiệu vào [[Viện bảo tàng Âm nhạc Georgia]].